Soạn bài – Những câu hát châm biếm

Soạn bài Những câu hát châm biếm trang 52 – 54 SGK ngữ văn lớp 7 tập 1, Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Những câu hát châm biếm sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ và chi tiết nhất.

Những Câu Hát Châm Biếm

1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào(1) lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm(2),
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa(3).
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh(4).

2. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.

3. Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống(5) uống rượu la đà,
Chim ri(6) ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào(7) thì đánh trống quân(8)
Chim chích(9) cởi trần, vác mõ đi rao.

4. Cậu cai(10) nón dấu lông gà,
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.

Chú thích

(1) Cô yếm đào: cô gái mặc yếm màu hoa đào (yếm: đồ mặc lót che ngực của phụ nữ thời xưa).

(2) Tửu: rượu; tăm: bọt sủi lên; đây là cách nói hoán dụ, dùng ghép với từ tửu để chỉ rượu.

(3) Ngày thì ước những ngày mưa: Ý nói để khỏi phải đi làm.

(4) Đêm thì ước những đêm thừa trống canh: Mỗi đêm có năm canh, sau mỗi canh có điểm trống; ước đêm nhiều (thừa) trống canh để được ngủ thêm.

(5) Cà cuống: côn trùng sống ở hồ, vực và ruộng nước sâu, thân hình lá, dẹt, mỏng, đầu vàng nhạt, bụng màu nâu xỉn, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay.

(6) Chim ri chim hình giống như chim sẻ, mỏ đen và to.

(7) Chào mào: chim nhỏ, đầu có túm lông nhọn, dưới đuôi có túm lông đỏ.

(8) Đánh trống quân: đánh trống đệm nhịp cho điệu hát trống quân – một điệu dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

(9) Chim chích: chim nhỏ, ăn sâu bọ, sống ở vùng đồng bằng, trung du.

(10) Cai: tức cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.

Hướng dẫn soạn bài – Những câu hát châm biếm

I. Đọc hiểu văn bản

Giải câu 1 (Trang 53 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Câu 1. Bài 1 “giới thiệu” về “chú tôi” như thế nào? Hai dòng đầu có ý nghĩa gì? Bài này châm biếm hạng người nào trong xã hội?

Trả lời:

Từ hay thường có nghĩa chỉ sự giỏi giang, tài năng, những mặt tốt đẹp của con người như : hát hay, học hay, làm hay. Vậy những cái hay của ông chú trong bài ca dao này có ý nghĩa như vậy không ? Đây là lối nói ngược để giễu cợt, mỉa mai, phổ iến trong ca dao châm biếm.

– Chân dung của chú tôi:

+ Là người nát rượu nghiện ngập (“hay tửu hay tăm”)

+ Là người thích hưởng thụ ăn chơi (“hay chè đặc, hay ngủ trưa”)

+ Là người lười biếng lao động (“ước ngày mưa, ước đêm thừa”)

=> Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm…

– Với lối nói ngược, nhìn bề ngoài thì tưởng như khen nhưng thực ra là mỉa mai, giễu cợt.

– Ý nghĩa hai dòng đầu:

+ Cô yếm đào – là biểu tượng cho sự trẻ trung, xinh đẹp.

+ Lặn lội bờ ao – cần cù chăm chỉ.

Hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy => Nhằm tạo nghịch cảnh gây cười.

– Đối tượng châm biếm. Đó là những kẻ lười biếng lao động, nhưng lại thích ăn chơi rượu chè mà xã hội nào, thời đại nào cũng có.

Giải câu 2 (Trang 53 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Câu 2. Bài 2 nhại lời của ai nói với ai? Em có nhận xét gì về lời của thầy bói? Bài ca này phê phán hiện tượng nào trong xã hội?Hãy tìm những bài ca dao khác có nội dung tương tự.

Trả lời:

Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói, bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn “nói dựa” – thực chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Sự khẳng định của thầy bói nguỵ biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết. Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.

Giải câu 3 (Trang 53 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Câu 3. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho ai, hạng người nào trong xã hội xưa?Việc chọn các con vật để miêu tả, “đóng vai” như thế lí thú ở điểm nào?Cảnh tượng trong bài có phù hợp với đám tang không? Bài ca này phê phán, châm biếm cái gì?

Trả lời:

– Ý nghĩa tượng trưng của các con vật: Muốn hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các con vật trong bài ca dao các em phải tìm hiểu các tục lệ, luật lệ của cuộc sống làng xã ngày xưa.

+ Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé.

+ Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường

-> đến đám ma ngồi uống rượu say sưa.

+ Chim ri, chim mào là những kẻ tay chân của xã trưởng, lí trưởng như: cai lệ, lính lệ – kiếm chác chia phần.

+ Chim chích là anh mõ đi rao việc làng.

– Sự lí thú trong việc lựa chọn các con vật đóng vai:

+ Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật.

+ Mỗi con vật có những hành động và đặc trưng riêng đúng với hạng người mà nó đóng vai.

+ Ý nghĩa phê phán trở nên sâu sắc kín đáo.

– Nhận xét về cảnh tượng trong bài ca dao.

+ Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang – chủ yếu là từ phía nững người đến dự đám.

+ Gia đình nhà cò ở trong tình cảnh đáng thương thê thảm : cha mẹ cò chết rũ ở trên cây, cò còn lo lắng chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những kẻ khác thì lại tranh nhau đến để kiếm chác, chia phần, đánh chén một cách vô lối.

– Ý nghĩa phê phán của bài ca dao : Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân.

Giải câu 4 (Trang 53 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Câu 4. Trong bài 4, chân dung “cậu cai” được miêu tả như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật châm biếm của bài ca này?

Trả lời:

Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai “dấu hiệu” nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng “cậu cai” đi, trong hình dung chỉ còn chiếc “nón dấu lông gà” (quyền lực) và “ngón tay đeo nhẫn” (khoe của) có vẻ rất trai lơ!

Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.

Về nghệ thuật, khi xây dựng nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này. Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.

Soạn phần luyện tập bài Những câu hát châm biếm

Giải câu 1 luyện tập (Trang 54 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Câu 1. Nhận xét về sự giống nhau của bốn bài ca dao trong văn bản, em đồng ý với ý kiến nào dưới đây:

a) Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng.
b) Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại.
c) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.
d) Nghệ thuật tả thực có trong cả bốn bài.

Trả lời:

Nhận xét về sự giống nhau của bốn bài ca dao, trong các ý kiến đã nêu, em đồng ý với ý kiến sau:

a) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.

Giải câu 2 luyện tập (Trang 54 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Câu 2.* Những câu hát châm biếm nói trên có điểm gì giống truyện cười dân gian?

Trả lời:

Những câu hát châm biếm nói trên và truyện cười dân gian đều giống nhau ở chỗ: lấy thói hư tật xấu của người đời để chê cười, châm biếm, dùng tiếng cười như một thứ vũ khí để xây dựng cho xã hội, con người ngày càng tốt đẹp hơn lên.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Những câu hát châm biếm

Câu 1: Bài 1 “giới thiệu” về “chú tôi” như thế nào? Hai dòng đầu có ý nghĩa gì? Bài này châm biếm hạng người nào trong xã hội?

Bài 1 “Giới thiệu” về chú tôi để rêu rao cầu hôn, chân dung gồm mấy nét giễu cợt, mỉa mai như sau:

– “Hay tửu hay tăm”: nghiện rượu.
– “Hay nước chè đặc” nghiện chè đậm.
– “Hay nằm ngủ trưa” và ban ngày thì ước “những ngày mưa”, ban đêm thì ước “đêm thừa trống canh”’, nghiện ngủ.
Như vậy, rõ ràng “chú tôi” là người có nhiều tật, đã rượu, chè lại còn thêm lười biếng. Thông thường, giới thiệu việc nhân duyên, người ta phải nói tốt. Nhưng đây thì ngược lại. Đó là cách nói ngược để châm biếm “chú tôi”.
Hai dòng đầu của bài ca vừa để bắt vần, vừa để chuẩn bị cho việc giới thiệu nhân vật. Đây là hiện tượng thường gặp trong các bài ca dao.
Bài này châm biếm hạng người vừa nghiện ngập vừa lười biếng trong xã hội.

Câu 2: Bài 2 nhai lại lời của ai nói với ai? Em có nhận xét gì về lời của thầy bói? Bài ca này phê phán hiện tượng nào trong xã hội? Hãy tìm những bài ca dao khác có nội dung tương tự.

Bài 2 nhai lời thầy bói nói với người đi xem bói. Ở đây, lời của thầy bói là kiểu nói nước đôi, nói những chuyện hiển nhiên. Thế nhưng, thầy bói dùng cái trò ấu trĩ này để lường gạt những người nhẹ dạ cả tin. Bài ca dùng chính lời của thầy bói để nói ra bản chất của thầy bói. Đó là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” để gây cười, châm biếm sâu sắc.
Bài ca dao này phê phán những kẻ hành nghề mê tín, lừa bịp, lợi dụng sự non dạ của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, nó cũng châm biếm những người mê tín mù quáng, thiếu hiểu biết như ông thầy bói dốt nát kia.
Bài ca dao có nội dung tương tự:
– Chập chập thôi lại cheng cheng,
Con gà trống thiến để riêng cho thầy.
Đơm xôi thì đơm cho đầy
Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng!

Câu 3. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho ai, hạng người nào trong xã hội xưa? Việc chọn các con vật để miêu tả, “đóng vai” như thế lí thú ở điểm nào? Cảnh tượng trong bài có phù hợp với đám tang không? Bài cao dao này phê phán, châm biếm cái gì?

Mỗi con vật trong bài 3 là tượng trưng cho một loại người, một hạng người. Con cò tượng trưng cho người nông dân, hạng người dân thường, người nghèo ở làng xã. Cà cuống tượng trưng cho những kẻ tai to mặt lớn như xã trưởng, lí trưởng, hạng người lợi dụng quyền thế, lợi dụng cơ hội để có miếng ăn. Chim ri, chào mào tượng trưng cho loại người giông như cai lệ, lính lệ trong làng, đây là hạng người cũng có chút ít quyền lực, thường thừa cơ ăn theo. Chim chích dễ làm ta liên tưởng tới những anh mõ đi rao việc làng trong xã hội xưa.
Việc chọn các con vật để miêu tả, “đóng vai” như thế thật là lí thú. Vì các con vật là hình ảnh sinh động của đủ loại, đủ hạng người trong một đám tang. Từ người bị nạn đến người lợi dụng tai nạn người khác để chè chén kiếm phần. Qua đó, nội dung bài ca dao trở nên châm biếm, phê phán sâu sắc hơn.
Cảnh tượng trong bài hoàn toàn không phù hợp với một đám tang. Cái chết thương tám, cái tang tóc của gia đình con cò trở thành dịp ăn nhậu, lao xao chia phần một cách vô lối.
Bài ca này phê phán, châm biếm hủ tục ma chay trong xã hội cũ. Đến nay hủ tục này vẫn còn.

Câu 4: Trong bài 4, chân dung “cậu cai” được miêu tả như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật châm biến của bài ca dao này?

Trong bài 4 chân dung “cậu cai” được miêu tả với những nét như sau:
– Đầu đội “nón dấu đuôi gà”: chi tiết này chứng tỏ cậu cai là lính và chứng tỏ cũng là người có “quyền hành”.
– “Ngón tay đeo nhẫn”: chi tiết này cho thấy cậu cai có vẻ cố làm thêm ra dáng.
– Thế nhưng, áo quần thì phải “đi mượn”, “đi thuê”. Thật là thảm hại cho một con người “quyền hành” như thế. Hóa ra “quyền hành” của cậu cai chỉ là sự khoe khoang, cố làm ra vẻ bên ngoài để lòe đời bịp người mà thôi.
Nghệ thuật châm biếm của bài ca dao này thể hiện ở mấy điểm:
– Tác giả dân gian gọi anh cai lệ là “cậu cai” vừa như để lấy lòng, vừa như xếp anh vào hạng trai lơ để mỉa mai kín đáo.
– Cách định nghĩa về cậu cai ở hai dòng đầu, tác giả dân gian như bĩu môi mà nói rằng, đội nón lên rồi đeo nhẫn vào là thành cậu cai, chứ cai là cái thứ gì chứ.
– “Ba năm được một chuyến sai” là dùng nghệ thuật phóng đại. Ý nói chẳng mấy khi cậu cai mới được một “chuyến sai”. Và vì chẳng mấy khi cho nên áo quần quan có mây lần mặc, chẳng cần chuẩn bị làm gì, để rồi mỗi lúc cần thì “đi mượn” hoặc “đi thuê”. “Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê” cũng chính là sự phóng đại để tô điểm cho cái chẳng mấy khi trên.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status