Soạn bài – Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo)

Soạn bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo) trang 35 – 36 SGK ngữ văn lớp 11 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo), sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

Hướng dẫn soạn bài – Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo)

III. Quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân

– Ngôn ngữ chung là cơ sở để mỗi cá nhân sản sinh ra những lời nói cụ thể của mình, đồng thời lĩnh hội được những lời nói của cá nhân khác.

  • Muốn tạo lời nói để biểu hiện và giao tiếp, mõi cá nhân phải huy động các yếu tố ngôn ngữ chung và vận dụng các quy tắc hoặc phương thức chung.
  • Khi nghe, đọc, cá nhân cần tiếp nhận, tìm hiểu, lĩnh hội nội dung và mục đích giao tiếp trong lời nói của người khác, cá nhân cần dựa trên cơ sở những yếu tố chung, quy tắc và phương thức chung thuộc ngôn ngữ của cộng đồng xã hội.

– Lời nói cá nhân là thực tế, sinh động, hiện thực hóa những yếu tố chung, những quy tắc và phương thức chung của ngôn ngữ.

IV. Luyện tập

Giải câu 1 – Luyện tập (trang 35 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Từ nách là một từ phổ biến, quen thuộc với mọi người nói tiếng Việt với nghĩa “mặt dưới chỗ cánh tay nối với ngực” (Từ điển tiếng Việt – Hoàng Phê chủ biên). Nhưng trong câu thơ dưới đây, Nguyễn Du (trong Truyện Kiều) đã có sự sáng tạo riêng khi dùng từ nách như thế nào?

Nách tường bông liễu bay sang láng giềng.

Trả lời:

Từ nách trong câu thơ của Nguyễn Du chỉ góc tường. Trong câu thơ này, Nguyễn Du đã chuyển nghĩa cho từ nách từ mang nghĩa chỉ vị trí thân thể con người sang chỉ vị trí giao nhau giữa hai bức tường tạo nên một góc. Như vậy, từ nách trong câu thơ của Nguyễn Du được dùng theo nghĩa chuyển. Nó được chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ.

Giải câu 2 – Luyện tập (trang 36 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Trong những câu thơ sau, từ xuân được dùng theo sự sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ như thế nào? Hãy phân tích nghĩa của từ xuân trong lời thơ của mỗi người.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.

(Hồ Xuân Hương, Tự tình – bài II)

Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

– Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

(Nguyễn Khuyến, Khóc Dương Khuê)

– Mùa xuân là Tết trồng cây,

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.

(Hồ Chí Minh)

Trả lời:

Từ xuân vốn mang nghĩa phổ quát, nó được coi là mùa chuyến tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mở đầu của một năm. Nhưng khi xuất hiện trong văn chương, từ xuân lại mang nhiều nghĩa khác nhau:

– Trong câu thơ: Ngán nỗi xuân đi rồi xuân lại (Hồ Xuân Hương), từ xuân vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ sức sống và nhu cầu tình cảm của tuổi trẻ.

– Trong câu thơ của Nguyễn Du: Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay, thì từ xuân trong cành xuân chỉ vẻ đẹp của người con gái, tuổi xuân của người con gái.

– Từ xuân (bầu xuân) trong câu thơ của Nguyễn Khuyến (Chén quỳnh tương ắp bầu xuân) lại có nghĩa chỉ chất men say nồng của rượu ngon, đồng thời cũng có nghĩa bóng chỉ sức sống dạt dào của tuổi trẻ, chỉ tình cảm bạn bè thắm thiết.

– Trong câu thơ của Hồ Chí Minh:

Mùa xuân là tết trồng cây

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.

Từ xuân thứ nhất có nghĩa gốc chỉ mùa xuân, mùa xuân đầu tiên của năm, trong khi đó từ xuân thứ hai chỉ sức sống mới và sự tươi đẹp.

Giải câu 3 – Luyện tập (trang 36 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Cùng là từ mặt trời trong ngôn ngữ chung, nhưng mỗi tác giả trong những câu thơ sau đã có sáng tạo như thế nào khi sử dụng?

a) Mặt trời xuống biền như hòn lửa.

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

(Huy Cận, Đoàn thuyền đánh cá)

b) Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,

Mặt trời chân lý chói qua tim.

(Tố Hữu, Từ ấy)

c) Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.

(Nguyễn Khoa Điềm, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)

Trả lời:

Từ mặt trời với nghĩa gốc của nó là một thiên thể nóng sáng, ở xa trái đất, là nguồn sưởi ấm và chiếu sáng cho trái đất. Khi được đưa vào thơ, từ mặt trời lại mang nhiều nghĩa khác nhau:

a) Trong hai câu thơ của Huy Cận:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

từ mặt trời được dùng với nghĩa gốc.

b) Trong hai câu thơ của Tố Hữu:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

từ mặt trời lại mang ý nghĩa chỉ chân lí, lí tưởng cách mạng.

c) Ở hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm:

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng

từ mặt trời thứ nhất được dùng với nghĩa gốc, mặt trời thứ hai được dùng với nghĩa ẩn dụ, chỉ đứa con của người mẹ. Đối với người mẹ, đứa con là cả một niềm hạnh phúc, niềm tin, ánh sáng cho cuộc đời của mẹ.

Giải câu 4 – Luyện tập (trang 36 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Theo anh (chị), trong những câu sau, từ nào là từ mới được tạo ra trong thời gian gần đây? Chúng được tạo ra dựa vào những tiếng nào có sẵn và theo phương thức cấu tạo từ như thế nào?

a) Nhưng ngẫm nghĩ một chút, họ sẽ thấy những vật mọn mằn nhất chứa cả một sự thông tin sâu sắc.

(Báo Quân đội nhân dân)

b) Gái miệt vườn giỏi giắn, làm trăm công nghìn việc không biết mệt.

(Minh Tuyền)

c) Tôi được xem băng ghi hình mọi chi tiết của cuộc mổ […] bằng ca–mê–ra chuyên dụng của chính máy nội soi.

(Quang Đẩu)

Trả lời:

a) Từ mọn mằn là từ do cá nhân tạo ra, chưa có trong ngôn ngữ chung của xã hội:

– Tiếng mọn với nghĩa “ nhỏ đến mức không đáng kể”.

– Những quy tắc cấu tạo chung:

+ Quy tắc tạo từ láy hai tiếng, lặp lại phụ âm đầu.

+ Trong hai tiếng, tiếng gốc (mọn) đặt trước, tiếng láy đặt sau.

+ Tiếng láy lặp lại phụ âm đầu, nhưng đổi thành vần ăn.

b) Trong câu (b) từ giỏi giắn cũng là từ do cá nhân tạo ra, chưa có trong ngôn ngữ chung của xã hội và cũng được tạo ra theo quy tắc trên: láy phụ âm đầu, tiếng thứ hai mang vần ăn. Từ giỏi giắn cũng có nghĩa: rất giỏi (sắc thái biểu cảm thể hiện sự mến mộ, thiện cảm).

c) Từ nội soi được tạo ra từ hai tiếng có sẵn trong ngôn ngữ là nội và soi, đồng thời dựa vào phương thức cấu tạo từ ghép chính phụ có tiếng chính chỉ hoạt động (đi sau) và tiếng bổ sung ý nghĩa (đi trước).

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo)

III. QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ CHUNG VÀ LỜI NÓI CÁ NHÂN

Ngôn ngữ chung của xã hội là cơ sở để sản sinh và lĩnh hội lời nói cá nhân. Ngược lại trong lời nói cá nhân vừa có phần biểu hiện của ngôn ngữ chung, vừa có những nét riêng. Hơn nữa, cá nhân có thể sáng tạo, góp phần làm biến đổi và phát triển ngôn ngữ chung.

IV. Soạn phần Luyện tập bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo) trang 35 – 36 SGK ngữ văn 11 tập 1

Bài 1. Từ nách là một từ phổ biến, quen thuộc với mọi người nói tiếng Việt với nghĩa “mặt dưới chỗ cánh tay nối với ngực” (Từ điển tiếng Việt – Hoàng Phê chủ biên). Nhưng trong câu thơ dưới đây, Nguyễn Du (trong Truyện Kiều) đã có sự sáng tạo riêng khi dùng từ nách như thế nào?

Nách tường bông liễu bay sang láng giềng.

Trả lời:

– Từ nách trong câu thơ trên của Nguyễn Du chỉ góc tường.

– Trong câu thơ này, Nguyễn Du đã chuyển nghĩa cho từ nách từ mang nghĩa chỉ vị trí trên thân thể con người sang nghĩa chỉ vị trí giao nhau giữa hai bức tường tạo nên một góc. Như thế từ nách trong câu thơ của Nguyễn Du được dùng theo nghĩa chuyển. Nó được chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ. Nếu thay từ nách tường bằng góc tường thì giá trị của câu thơ sẽ giảm đi rất nhiều.

Bài 2. Trong những câu thơ sau, từ xuân được dùng theo sự sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ như thế nào? Hãy phân tích nghĩa của từ xuân trong lời thơ của mỗi người.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.

(Hồ Xuân Hương, Tự tình – bài II)

Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

– Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

(Nguyễn Khuyến, Khóc Dương Khuê)

– Mùa xuân là Tết trồng cây,

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.

(Hồ Chí Minh)

Trả lời:

Từ xuân vốn mang nghĩa phổ quát là: “Mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mở đầu của năm” (Từ điển tiếng Việt – Hoàng Phê chủ biên) nhưng xuất hiện trong văn chương, từ xuân lại mang nhiều nghĩa khác nhau:

– Trong câu thơ: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại (Hồ Xuân Hương). Từ xuân thứ nhất chỉ tuổi xuân, còn từ xuân thứ hai lại chỉ mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân càng khiến cho nhà thơ thêm buồn tủi, chán chường…

– Trong câu thơ sau của Nguyễn Du: Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. Từ xuân trong cành xuân chỉ vẻ đẹp,  tuổi xuân của người con gái.

– Từ xuân (bầu xuân) trong câu thơ của Nguyễn Khuyến: Chén quỳnh tương ám ắp bầu xuân, có nghĩa chỉ chất men say nồng của rượu ngon, đồng thời cũng có nghĩa bóng chỉ sức sống dạt dào của tuổi trẻ, chỉ tình cảm bạn bè thắm thiết.

– Trong câu thơ của Hồ Chí Minh: Mùa xuân là tết trồng cây, / Làm cho đất nước càng ngày càng xuân. Từ xuân thứ nhất có nghĩa gốc chỉ mùa xuân, mùa đầu tiên của năm, trong khi đó từ xuân thứ hai chỉ sức sống mới và sự tươi đẹp.

Bài 3. Cùng là từ mặt trời trong ngôn ngữ chung, nhưng mỗi tác giả trong những câu thơ sau đã có sáng tạo như thế nào khi sử dụng?

a) Mặt trời xuống biền như hòn lửa.

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

(Huy Cận, Đoàn thuyền đánh cá)

b) Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,

Mặt trời chân lý chói qua tim.

(Tố Hữu, Từ ấy)

c) Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.

(Nguyễn Khoa Điềm, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)

Trả lời:

Từ “mặt trời” trong từ điển có nghĩa là: “Thiên thể nóng sáng, ớ xa Trái Đất, là nguồn chiếu sáng và sưởi ấm chủ yếu cho Trái Đất”. Trong khi đó ở những câu thơ dưới đây, nó lại được dùng đế chỉ những hàm nghĩa khác nhau:

a) Trong hai câu thơ của Huy Cận:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.

Sóng dã cài then, đêm sập cửa.

Từ mặt trời được dùng với nghĩa gốc.

b) Trong khi đó, ở hai câu thơ của Tố Hữu:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,

Mặt trời chân lí chói qua tim.

Từ mặt trời lại mang ý nghĩa chỉ chân lí, lí tưởng cách mạng.

c) Trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Nguyễn Khoa Điềm viết:

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.

Trong hai câu thơ này, từ mặt trời thứ nhất cũng được dùng với nghĩa gốc, từ mặt trời thứ hai được dùng với nghĩa ẩn dụ, chỉ đứa con của người mẹ. Đối với người mẹ, đứa con là cả một niềm hạnh phúc, niềm tin, mang ánh sáng cho cuộc đời của me.

Bài 4. Theo anh (chị), trong những câu sau, từ nào là từ mới được tạo ra trong thời gian gần đây? Chúng được tạo ra dựa vào những tiếng nào có sẵn và theo phương thức cấu tạo từ như thế nào?

a) Nhưng ngẫm nghĩ một chút, họ sẽ thấy những vật mọn mằn nhất chứa cả một sự thông tin sâu sắc.

(Báo Quân đội nhân dân)

b) Gái miệt vườn giỏi giắn, làm trăm công nghìn việc không biết mệt.

(Minh Tuyền)

c) Tôi được xem băng ghi hình mọi chi tiết của cuộc mổ […] bằng ca–mê–ra chuyên dụng của chính máy nội soi.

(Quang Đẩu)

Trả lời:

Trong ba câu đã cho (SGK Ngữ vân 11, tập 1, trang 36), các câu a, b có hai từ do cá nhân tạo ra, chưa có trong ngôn ngữ chung của xã hội. Chúng được tạo ra trên cơ sở một tiếng đã có sẵn cùng với quy tắc cấu tạo chung hoặc chỉ dựa vào quy tắc (mô hình, kiểu) cấu tạo chung.

a) Ở câu a, từ mọn mằn được cá nhân tạo ra khi dựa vào:

– Tiếng mọn với nghĩa là “nhỏ đến mức không đáng kể”.

– Những quy tắc cấu tạo chung như:

+ Quy tắc tạo từ láy hai tiếng, lặp lại phụ âm đầu (âm m).

+ Trong hai tiếng, tiếng gốc (mọn) đặt trước, tiếng láy đặt sau.

+ Tiếng láy lặp lại phụ âm đầu, nhưng đổi vần thành vần ăn.

Đây là quy tắc tạo từ láy phổ biến trong tiếng Việt. Các từ cùng loại như: nhỏ nhắn, xinh xắn, đều đặn, may mắn, khoẻ khoắn, lành lặn, thẳng thắn, vừa vặn,…

Từ những phân tích trên, có thể thấy, từ mọn mằn trong trường hợp này được dùng với nghĩa: nhỏ nhặt, tầm thường, không đáng kể.

b) Trong câu b, từ giỏi giắn cũng được tạo ra theo những quy tắc như trên: láy phụ âm đầu, tiếng thứ hai mang vần ăn. Từ giỏi giắn cũng có nghĩa: rất giỏi (sắc thái biểu cảm thể hiện sự mến mộ, thiện cảm).

c) Trong câu c, từ nội soi được tạo ra từ hai tiếng có sẵn trong ngôn ngữ là nội và soi, đồng thời dựa vào phương thức cấu tạo từ ghép chính phụ có tiếng chính chỉ hoạt động (đi sau) và tiếng phụ bổ sung ý nghĩa (đi trước). Phương thức cấu tạo từ này giống với phương thức tạo ra các từ như: ngoại xâm, ngoại nhập,…

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status