Soạn bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) trang 128 – 130 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm), sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
NHÀN
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
TIỂU DẪN
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) quê ở làng Trung Am, nay thuộc xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng, đỗ Trạng nguyên (1535), làm quan dưới triều Mạc. Khi làm quan, ông dân sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần. Vua không nghe, ông bèn cáo quan về quê, lập quán Trung Tân, dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Ông dạy học, học trò có nhiều người nổi tiếng nên ông được đời suy tôn là Tuyết Giang Phu Tử (Người thầy sông Tuyết). Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm. Vua Mạc cũng như các chúa Trịnh, Nguyễn có việc hệ trọng đều hỏi ý kiến ông và ông đều có cách mách bảo kín đáo, nhằm hạn chế chiến tranh, chết chóc. Mặc dù về ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vân tham vấn cho triều đình nhà Mạc. Ông được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình Quốc công nen có tên gọi là Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lạ tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng trên 170 bài). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội. Nhàn là bài thơ Nôm trong Bạch Vân quốc ngữ thi. Nhan đề bài thơ do người đời sau đặt.
VĂN BẢN
Một mai (1), một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai (2) vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu, đến cộ cây (3), ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao (4)
(Hợp tuyển thơ văn Việt Nam , tập II – Văn học thế kỉ X – thế kỉ XVII , Sđd)
CHÚ THÍCH
(1) Mai: dụng cụ đào đất, xắn đất
(2) Dầu ai: mặc cho ai. Dù ai có cách vui thú nào cũng mặc, tôi cứ thơ thẩn (giữa cuộc đời này).
(3) Cội cây: gốc cây
(4) Hai câu 7 và 8 tác giả có ý dẫn điển Thuần Vu Phần uông rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hòe An, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng mắt tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng, thấy dưới cành hòe phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi. Từ đó điển này có ý: phú quý chỉ là một giấc chiêm bao.
Hướng dẫn soạn bài – Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
I. Bố cục:
– Hai câu thơ 1, 2: Thú vui tao nhã của thi nhân khi ở ẩn.
– Hai câu thơ 3, 4: Quan điểm của nhà thơ về “dại”, “khôn” ở đời.
– Hai câu thơ 5, 6: Cuộc sống an nhàn, bình dị của thi nhân.
– Hai câu thơ cuối: Triết lý sống nhàn của thi nhân.
II. Hướng dẫn soạn bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) chi tiết.
Giải câu 1 (Trang 129 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng tác giả như thế nào?
Trả lời:
Âm hưởng hai câu thơ đầu đã gợi ra ngay cái vẻ thung dung. Nhịp thơ 2/2/3 cộng với việc dùng các số từ tính đếm (một…, một…, một…) trước các danh từ mai, cuốc, cần câu cho thấy cái chủ động, sẵn sàng của cụ Trạng đối với cuộc sống điền dã, và còn như là chút ngông ngạo trước thói đời.
Giải câu 2 (Trang 129 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Anh (chị) hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của tác giả về “dại”, “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4?
Trả lời:
Cách nói hóm hỉnh song qua đó toát lên quan niệm nhân sinh của tác giả. Cụ Trạng tự nhận mình là “dại”, chấp nhận tiếng dại của “miệng thế” chê bai để “tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Câu thơ sử dụng cách nói ngược nghĩa. Tuyết Giang Phu Tử với sự thâm trầm, trải đời đã tận hiểu sự đua chen, trói buộc của vòng danh lợi, bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Tự nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”. Nghệ thuật đối: “ta” đối với “người”, “dại” đối với “khôn”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ tức tìm đến sự tĩnh lặng của tự nhiên, tìm đến sự yên tĩnh trong tâm hồn, không bon chen, không cầu canh; còn người tìm đến chốn lao xao là tìm đến chốn quan trường, tuy sang trọng, quyền quý, song phải bon chen, đối chọi, cảnh giác… Nghệ thuật đối tạo sự so sánh giữa hai cách sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả.
Giải câu 3 (Trang 129 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ cho tháy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? (Quê mùa, khổ cực? Đảm hạc mà thanh cao? Hòa hợp với tự nhiên?)
Phân tích giá trị nghệ thuật của hai câu thơ này.
Trả lời:
Ở hai câu 5, 6, tác giả nói đến chuyện “ăn” và “tắm” một cách đầy thích thú. Theo vòng quay bốn mùa quanh năm, việc “ăn”, “tắm” của “ta” thuận theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên ; đạm bạc, thanh bần nhưng thú vị, thanh thản.
Món ăn của ông là những thức có sẵn ở ruộng vườn, mùa nào thức nấy. Cuộc sống sinh hoạt của cụ giống như một người nông dân thực thụ, cũng tắm hồ, tắm ao. Hai câu thơ vẽ nên cảnh sinh hoạt bốn mùa của tác giả, mùa bào cũng thong dong, thảnh thơi. Cách sống thanh cao, nhẹ nhàng, bình yên vô cùng.
Giải câu 4 (Trang 130 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Đọc chú thích 4 để hiểu điển tích được vận dụng trong hai câu thơ cuối. Anh (chị) cảm nhận như thế nào về nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm?
Trả lời:
Hai câu cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả uyên thâm, cũng đã từng vào ra chốn quan trường, đã tận hiểu quy luật biến dịch của cuộc đời, cũng hiểu danh lợi chỉ là phù du, do đó đã phủi tay với vòng danh lợi, tìm sự tĩnh lặng cho tâm hồn, hòa nhập cùng thiên nhiên:
“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Tác giả bộc lộ thái độ xem thường phú quý, coi chốn quyền danh phú quý chỉ là giấc chiêm bao, không có thực, qua đó khẳng định thêm một lần nữa sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của riêng mình.
Giải câu 5 (Trang 130 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì?
– Không vất vả, cực nhọc
– Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân.
– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.
– Hòa hợp với thiên nhiên
Quan niệm sống đó là tích cực hay tiêu cực? Vì sao?
Trả lời:
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn tránh sự vất vả để tận hưởng sự nhàn rỗi, cũng không phải là thái độ lánh đời, không quan tâm tới xã hội. Cần hiểu chữ “nhàn” thái độ lánh đời, không quan tâm tới xã hội. Cần hiểu chữ “nhàn” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói là thái độ không đua chen trong vòng danh lợi để giữ cốt cách thanh cao, nhàn là về với ruộng vườn để hòa hợp với thiên nhiên, vui thú cùng cây cỏ. Nhàn là làm một lão nông “Một mai, một cuốc, một cần câu” và “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”, nuôi dưỡng tinh thần trong sự khoáng đạt của tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Nên hiểu, dẫu ẩn cư ở ruộng vườn nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn luôn canh cánh trong lòng nỗi lo cho dân, cho nước. Một người bộc trực, thẳng tính, vì lo lắng cho xã tắc đã từng dâng sớ xin vua chém mười tám lộng thần không thể nào trở thành một người vô ưu trước những tình cảnh của dân của nước được. Đặt trong hoàn cảnh chế độ phong kiến đang trên đà khủng hoảng, những giá trị đạo đức đang có biểu hiện suy vi, người hiền không có đất dụng thi quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một quan niệm sống tích cực.
Soạn phần luyện tập bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 130 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Nêu cảm nhận chung của anh (chi) về cuộc sống, nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bải thơ Nhàn.
Trả lời:
“Nhàn” là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn theo quan niệm của nhà thơ là sống thuận lợi theo lẽ tự nhiên, không màng danh lợi. Bài thơ này là lời tâm sự về cuộc sống và sở thích cá nhân. Nó cũng đồng thời thể hiện một quan niệm nhân sinh độc đáo của nhà thơ.
Bài thơ mở đầu bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “nước giếng đào, cơm cày ruộng”. Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo trước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp câu thơ nghe như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một… một… một…
Đến hai câu luận nhà thơ lại tiếp tục nhấn thêm một chút tình điệu thôn quê nữa để người đọc cảm nhận thực sự được cái vui của “cuộc sống nhàn”:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thường, vậy mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm “sang trọng” biết bao. Nó chăng những không gợi ra vẻ gì khắc khổ mà còn toát lên toàn bộ vẻ thanh cao. Thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi được hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.
Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, rất giản dị, rất tự nhiên mà vẫn thanh cao và thú vị vô cùng.
Nếu chỉ đọc bốn câu thơ miêu tả về cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ ngay đến hình ảnh một bậc danh nho đang muốn lánh đời. Thế nhưng trở về với hai câu thực, chúng ta sẽ hiểu hơn cái quan niệm “lánh đời” của nhà thơ:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Vậy ra, Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu nhương đầy những ganh tị, bon chen. Hai câu thơ diễn ý bằng nói ngược. Vì thế nó tạo cho người đọc một liên tưởng thật hóm hỉnh, sâu cay. Câu thơ đúng là trí tuệ sắc sảo của một bậc đại quan – trí tuệ để nhận ra cái khôn và cái dại thật sự ở đời.
Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Hai câu thơ chẳng biết đang vẽ cảnh đời hay tiên cảnh. Ở đó nhân vật trữ tình cũng không biết đang tình hay mơ. Tất cả cứ hòa cùng làm một dưới cái nhãn quan tỏ tường và thông tuệ của nhà thơ.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Câu 1. Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng tác giả như thế nào?
Trả lời:
– Số từ “một” được lặp lại ba lần, đi cùng với ba danh từ “mai”, “cuốc”, “cần câu” như tái hiện nhịp đếm của con người.
– Nhịp điệu hai câu thơ đầu thay đổi linh hoạt: câu 1 ngắt nhịp 2/2/2, câu 2 ngắt nhịp 4/3 quen thuộc.
– Nhà thơ đang sống một cuộc sống nhàn tản, với thú vui tao nhã, lánh xa khỏi những ồn ã của cuộc sống phồn hoa, tấp nập, đầy bon chen bên ngoài.
Câu 2. Anh (chị) hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của tác giả về “dại”, “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4?
Trả lời:
– Nơi “vắng vẻ”: là nơi mà tác giả đang ở ẩn, nơi xa lánh những lo toan, bon chen vật chất của cuộc sống.
– Chốn “lao xao”: nơi trái ngược với nơi tác giả đang ở, là cuộc sống ngoài kia với đầy rẫy những bon chen.
– Quan điểm về “dại”, “khôn” của tác giả được thể hiện bằng cách nói trái ngược. Dựa trên câu chữ, chọn cuộc sống ở chốn an tĩnh, lánh đời như tác giả là dại, đắm mình vào chốn xô bồ là khôn, nhưng thực chất quan điểm của tác giả ngụ ý điều ngược lại.
– Nghệ thuật đối rất chỉnh giữa hai câu 3 và 4 đã tách bạch rõ hai kiểu sống đối lập, làm bật nổi quan điểm sống của thi nhân.
Câu 3. Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ cho tháy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? (Quê mùa, khổ cực? Đảm hạc mà thanh cao? Hòa hợp với tự nhiên?)
Phân tích giá trị nghệ thuật của hai câu thơ này.
Trả lời:
– Mỗi mùa có một loại sản vật khác nhau, dân dã, bình dị.
– Khung cảnh sinh hoạt hết sức bình dị, đơn giản.
– Điều này cho thấy một cuộc sống đạm bạc mà thanh cao, an tĩnh, hòa hợp với tự nhiên.
– Hai câu thơ sử dụng phép liệt kê, liệt kê bốn mùa trong năm gắn với những sản vật thiên nhiên đặc trưng. Phép liệt kê ấy gợi ra dòng chảy của cuộc sống qua bốn mùa. Bên cạnh phép liệt kê, tác giả còn sử dụng cách ngắt nhịp 4/3 quen thuộc, đều đặn thể hiện phong thái ung dung tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Câu 4. Đọc chú thích 4 để hiểu điển tích được vận dụng trong hai câu thơ cuối. Anh (chị) cảm nhận như thế nào về nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm?
Trả lời:
– Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có cốt cách thanh cao, sống vượt lên trên danh lợi. Đối với ông, phú quý chỉ là chiêm bao, sẽ chóng tan biến đi, thứ niềm vui mà nó mang lại chỉ là nhất thời. Tác giả đối với phú quý lợi lộc thì xem nhẹ tựa lông hồng, không màng tới, không bận tâm.
Câu 5. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì?
– Không vất vả, cực nhọc
– Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân.
– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.
– Hòa hợp với thiên nhiên
Quan niệm sống đó là tích cực hay tiêu cực? Vì sao?
Trả lời:
– Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, là hòa hợp với tự nhiên.
– Đó là quan niệm sống tích cực. Bởi vì đây không phải là thói sống ích kỷ, chỉ giữ những điều tốt đẹp cho riêng mình. Hơn nữa, Nguyễn Bỉnh Khiêm một đời chính trực, sáng suốt nhưng tại không can gián được triều đình vậy nên mới tìm cách quy ẩn chứ không phải là lánh đời vì sợ thiệt thân.
Soạn phần luyện tập bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) (trang 130 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Câu 1. Nêu cảm nhận chung của anh (chi) về cuộc sống, nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bải thơ Nhàn.
Trả lời:
Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một thái độ một phản ứng với thời cuộc náo loạn, nhiều thị phi lúc bấy giờ. Ông chọn cách quy ẩn là bởi muốn gìn giữ cốt cách thanh cao của mình, không muốn để bản thân mình phải sa vào vòng xoáy của đua tranh, quyền bính. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho có nhân cách thanh cao, không màng danh lợi.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)