Soạn bài – Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê

Soạn bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư) trang 125 – 128 SGK ngữ văn lớp 7 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ và chi tiết nhất theo sách giáo khoa.

NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ

(Hồi hương ngẫu thư)

Phiên âm

Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,

Hương âm vô cải, mấn mao tồi.

Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,

Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?

(Hạ Tri Chương(*))

Dịch nghĩa

Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,

Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng.

Trẻ con gặp mặt, không quen biết,

Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?

(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại. Thiếu: trẻ, tiểu: nhỏ, li: xa, rời, gia: nhà, lão: già, đại: lớn. Âm: tiếng, giọng nói, : không, cải: đổi, mấn mao: tóc mai, tồi: hỏng, rơi rụng. Nhi đồng: trẻ con, tương: cùng nhau, kiến: thấy, bất: không, thức: biết, quen nhau. Tiếu: cười, vấn: hỏi, khách: khách, người ở nơi khác đến, tòng: từ, hà xứ: nơi nào, lai: tới, đến.)

Dịch thơ

Khi đi trẻ, lúc về già

Giọng quê vẫn thế, tóc đã khác bao.

Trẻ con nhìn lạ không chào

Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?

(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,

NXB Văn học, Hà Nội, 1987)

Trẻ đi, già trở lại nhà

Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu.

Gặp nhau mà chẳng biết nhau,

Trẻ cười hỏi: “Khách từ đâu đến làng?”

(Trần Trọng San dịch, trong Thơ Đường, tập I,

Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)

soan bai ngau nhien viet nhan buoi moi ve que sgk ngu van 7 tap 1

Chú thích:

(*) Hạ Tri Chương (695-744): tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 659, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi Lí Bạch là “trích tiên” (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1.

Hướng dẫn soạn bài – Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư) chi tiết

Giải câu 1 (Trang 127 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ này có gì độc đáo?

(Gợi ý: so sánh với tình huống thể hiện tình quê hương trong bài Tĩnh dạ tứ.)

Trả lời:

– Lí do để bài thơ ra đời là một nghịch lí ngậm ngùi bị gọi là khách ngay trên chính quê hương mình trong ngày đầu tiên trở về.

– Khác với Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch ở xa quê nhớ quê nên mới viết về quê.

Giải câu 2 (Trang 127 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Chứng minh hai câu đầu đã dùng phép đối trong câu (còn gọi là tiểu đối, tự đối).Nêu tác dụng của việc dùng phép đối ấy.

Lưu ý: Ở thơ ngũ ngôn và thất ngôn, số chữ của hai vế đối nhau trong câu không bằng nhau, tuy vậy, xét về mặt từ loại và cú pháp, vẫn có thể đối rất chỉnh.

Trả lời:

Hai câu đầu của bài thơ này có hình thức tiểu đối: Thiếu tiểu li gia / lão đại hồi, Hương âm vô cải / mấn mao tồi. Hai câu đối, mỗi câu hai vế, mỗi vế có hai bộ phận đối nhau rất chỉnh. Lí gia đối với đại hồi, hương âm đối với mấn mao là chỉnh cả ý lẫn lời ; thiếu tiểu đối với lãovô cải đối với tồi. Tuy có hơi chênh về lời song về ý rất chỉnh (thiếu tiểu: còn nhỏ ; lão: về già ; vô cải: không thay đổi ; tồi: chỉ sự thay đổi). Xét về ý nghĩa ngữ pháp, thiếu tiểu và lão đều là chủ ngữ cũng như vô cải và tồi đều là vị ngữ, hai câu đối đọc lên nghe rất hài hoà.

Hình thức tiểu đối trong hai câu này đã giúp nhà thơ thể hiện những ý nghĩa rất khái quát trong một lượng câu chữ ít ỏi. Câu thơ đầu nói về quãng thời gian gần suốt cả cuộc đời xa quê đồng thời hé lộ tình cảm quê hương của nhà thơ. Câu thơ thứ hai dùng một yếu tố thay đổi (mái tóc) để làm nổi bật yếu tố không thay đổi (tiếng nói quê hương). Nói hương âm vô cải là đã động đến phần tinh tế trong sâu thẳm tâm hồn (người thấy tiếng nói quê hương không thay đổi qua mấy chục năm trời hẳn là người luôn nghĩ về quê hương).

Giải câu 3 (Trang 127 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Kẻ lại bảng sau vào vở và đánh dấu X vào ô mà em cho là hợp lí:

Phương thức biểu đạt Tự sự Miêu tả Biểu cảm Biểu cảm qua tự sự Biểu cảm qua miêu tả
Câu 1
Câu 2

Trả lời:

Phương thức biểu đạt Tự sự Miêu tả Biểu cảm Biểu cảm qua tự sự Biểu cảm qua miêu tả
Câu 1 X X X
Câu 2 X X X

Tuỳ từng cách giải thích (căn cứ và dấu hiệu ngôn ngữ hoặc căn cứ vào tình cảm và mục đích biểu hiện của bài thơ) mà có thể đưa ra cách lựa chọn theo ý kiến của mình.

Giải câu 4 (Trang 127 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Sự biểu hiện của tình quê hương ở hai câu trên và hai câu dưới có gì khác nhau về giọng điệu?

(Gợi ý: Phân tích xem vì sao chỉ có nhi đồng xuất hiện và sự xuất hiện đó cùng tiếng cười, câu hỏi hồn nhiên, thơ ngây của các em có làm tác giả vui lên không.)

Trả lời:

Sự khác nhau về giọng điệu biểu đạt ở hai câu trên và hai câu dưới:

– Hai câu trên:

“Trẻ đi, già trở lại nhà

Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu”

Giọng điệu miêu tả, tự sự và thoáng chút ngậm ngùi, tâm sự của người con xa quê lâu ngày nay mới được trở về.

– Hai câu dưới:

“Trẻ con nhìn lạ không chào

Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?”

Giọng điệu hóm hỉnh, bi hài:

+ Sự ngây thơ, hồn nhiên của trẻ thơ.

+ Hoàn cảnh trớ trêu, bị gọi là khách ngay trên quê nhà.

+ Cảm giác bơ vơ, lạc lọng khi trở về quê không còn người thân thích, quen biết, nỗi ngậm ngùi đau xót.

+ Câu hỏi hồn nhiên của các em nhỏ làm cho tác giả vừa vui, vừa buồn.

Soạn phần luyện tập bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê

Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 128 SGK ngữ văn 7 tập 1)

Căn cứ vào bản dịch nghĩa bài Hồi hương ngẫu thư và những điều cảm nhận được qua việc học bài thơ, hãy so sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San.

Trả lời:

So sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San:

– Giống nhau: đều sử dụng thể thơ lục bát và dịch rất sát nghĩa.

– Khác nhau:

+ Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ không có tiếng cười tếu của trẻ em.

+ Bản dịch của Trần Trọng San các chữ cuối không vần với nhau và âm điệu câu cuối không được mềm mại.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê

I. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Câu 1. Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ này có gì độc đáo?

(Gợi ý: so sánh với tình huống thể hiện tình quê hương trong bài Tĩnh dạ tứ.)

Trả lời:

Tên bài thơ là Hồi hương ngẫu thư nghĩa là ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê. Hạ Tri Chương tác giả bài thơ thi đậu tiến sĩ làm quan trên 50 năm ở Trường An mới về quê. Điều này đáng trân trọng đúng như hai câu thơ nổi tiếng của Khuất Nguyên: “Hồ tử tất thủ khâu. Quyện điểu quy cựu lâm. (Cáo chết tất quay đầu về phía núi gò. Chim mỏi tất bay về rừng cũ.) Ngẫu thư là ngẫu nhiên viết chứ không phải là tình cảm phát sinh bộc lộ một cách ngẫu nhiên. Nói ngẫu nhiên viết vì nhà thơ không chủ định viết. Nhưng do tình huống bị gọi là “khách” ở cuối bài làm tác giả xót xa là duyên cớ ngẫu nhiên ông phải chấp bút đề thơ.

Đằng sau duyên cớ ngẫu nhiên đó là một điều kiện tất yếu đó là tình yêu sâu nặng, luôn luôn canh cánh trong lòng bất cứ lúc nào cũng có thể thổ lộ ra của nhà thơ. Có thể so sánh tình cảm đó như một sợi dây đàn căng thẳng và chỉ cần chi tiết chân thực nhưng vô lí ở cuối bài va đập vào là ngân lên, ngân mãi.

Câu 2. Chứng minh hai câu đầu đã dùng phép đối trong câu (còn gọi là tiểu đối, tự đối).Nêu tác dụng của việc dùng phép đối ấy.

Lưu ý: Ở thơ ngũ ngôn và thất ngôn, số chữ của hai vế đối nhau trong câu không bằng nhau, tuy vậy, xét về mặt từ loại và cú pháp, vẫn có thể đối rất chỉnh.

Trả lời:

Câu 1: Thiếu tiểu li gia lão đại hồi.

Số  chữ của hai vế đối không bằng nhau 4/3, song xét về từ loại và cú pháp hai vế vẫn có thể đối với nhau rất chỉnh.

Câu 2: Hương âm vô cải/mấn mao tồi cũng thế, có một bộ phận đối chỉnh ý lẫn lời (hương âm, mẩn mao), một bộ phận tuy đối không thật chỉnh về lời song rất chỉnh về ý (vô cải, tồi) và cả chức năng ngữ pháp (vô cải, tồi) đều có chức năng vị ngữ.

Câu 1 là câu kể tóm tắt quãng đời xa quê làm quan, cho thấy sự thay đổi về vóc người, về tuổi tác, hé mở tình cảm quê hương của tác giả.

Câu 2 là câu tả, sử dụng yếu tố thay đổi (mẩn mao: tóc mai) làm nổi bật yếu tố không thay đổi (hương âm: giọng quê). Nhà thơ dùng chi tiết chân thực có tính tượng trưng ấy để làm nổi bật tình yêu quê hương.

Như thế, dù là câu kể hay tả, tác giả đều sử dụng phép đối để gián tiếp bộc lộ tình cảm gắn bó với quê hương.

Câu 3. Kẻ lại bảng sau vào vở và đánh dấu X vào ô mà em cho là hợp lí:

Phương thức biểu đạt Tự sự Miêu tả Biểu cảm Biểu cảm qua tự sự Biểu cảm qua miêu tả
Câu 1
Câu 2

Trả lời:

Phương thức biểu đạt Tự sự Miêu tả Biểu cảm Biểu cảm qua tự sự Biểu cảm qua miêu tả
Câu 1 X X
Câu 2 X X

Như trên đã nói, câu 1 là câu kể, câu 2 là câu tả. Phương thức diễn đạt toàn bài là biểu cảm nhưng là biểu cảm gián tiếp vì trong bài nói chung là có nhiều yếu tố miêu tả đặc biệt là rất nhiều yếu tố tự sự.

Câu 4. Sự biểu hiện của tình quê hương ở hai câu trên và hai câu dưới có gì khác nhau về giọng điệu?

(Gợi ý: Phân tích xem vì sao chỉ có nhi đồng xuất hiện và sự xuất hiện đó cùng tiếng cười, câu hỏi hồn nhiên, thơ ngây của các em có làm tác giả vui lên không.)

Trả lời:

Mối liên hệ chặt chẽ giữa hai câu trên và câu dưới:

Sau hơn 50 năm xa quê làm quan ở kinh đô Trường An, Hạ Tri Chương trở lại quê hương. Không chỉ tác giả đã quá nhiều thay đổi (vóc người, tuổi tác, mái tóc) mà cả quê  hương cũng thay đổi lớn lao. Tình cảm quê hương của nhà thơ không chỉ thể hiện ở chi tiết hương âm vô cải (giọng quê không đổi) mà còn ở thái độ đàu xót ngậm ngùi trước bao đổi thay của nơi chôn nhau cắt rốn.

Cái độc đáo của hai câu thơ dưới về mặt nghệ thuật là tác giả đã dùng những hình ảnh vui tươi, những âm thanh vui tươi để bộc lộ tình cảm đau xót. Quê hương chỉ còn trẻ con ra đón nghĩa là người lớn, những kẻ cùng tuổi với nhà thơ đã chẳng còn ai. Thời bấy giờ sống đến 70 đã được xem là “cổ lai hi” (xưa nay hiếm) huống hồ Hạ Tri Chương lúc này đã 86 tuổi. Cái đau xót của ông chính là ở chỗ trở về nơi cắt rốn chôn nhau lại bị xem như là “khách”. Dẫu biết rằng các cháu nhi đồng hiếu khách nên đã cười hỏi tiếp đón. Nhưng các em càng niềm nở tươi cười bao nhiêu thì nỗi lòng nhà thơ càng đau xót bấy nhiêu. Phía sau những lời thơ tường thuật có vẻ như vô tư, khách quan ấy là một giọng điệu bi hài thấp thoáng ẩn hiện.

II. LUYỆN TẬP

Bài 1. Căn cứ vào bản dịch nghĩa bài “Hồi hương ngẫu thư” và những điều cảm nhận được qua việc học bài thơ, hãy so sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San.

Trả lời:

So sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San:

– Giống nhau:

  • Cả hai bản dịch đều sử dụng thể thơ lục bát.
  • Sát với bản dịch nghĩa.

– Khác nhau:

Chi tiết tóc mai rụng:

  • Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ: Dịch thành “tóc đà khác xưa” (chưa thể hiện được cụ thể nội dung trong nguyên tác).
  • Bản dịch của Trần Trọng San: Dịch thành “sương pha mái đầu” (cũng chưa đạt).

Câu thứ ba và thứ tư:

+ Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ:

  • Chưa dịch được tiếng cười hồn nhiên của đám trẻ con khi chúng đưa ra câu hỏi với tác giả.
  • Không dịch được sát ý thơ: “tương kiến, bất tương thức” (gặp nhau, không biết nhau).

+ Bản dịch của Trần Trọng San: Ở hai câu này dịch sát với nguyên tác hơn.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status