Soạn bài – Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

Soạn bài Lẽ ghét thương trang 45 – 48 SGK ngữ văn lớp 11 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Lẽ ghét thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu), sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

LẼ GHÉT THƯƠNG

(Trích Truyện Lục Vân Tiên)

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

TIỂU DẪN

Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu có lẽ được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, khi ông đã bị mù, về dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định. Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác, nhằm đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và của nhân dân đương thời về một xã hội tốt đẹp,ở đó mọi quan hệ giữa con người với con người đều thấm đượm tình cảm yêu thương, nhân ái. Tác phẩm thuộc loại truyện Nôm bác học nhưng mang nhiều tính chất dân gian, ngay từ khi mới ra đời đã được nhân dân, đặc biệt là người dân Nam Kì, đón nhận và lưu truyền rộng rãi.

Ông Quán chỉ là một nhân vật phụ trong truyện nhưng lại rất được yêu thích, bởi lẽ đó là biểu tượng của tình cảm yêu ghét phân minh, trong sáng của quần chúng. Lẽ ghét thương là đoạn thơ trích từ câu 473 đến câu 504 của Truyện Lục Vân Tiên, kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng nho sinh (Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu, làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

VĂN BẢN

Quán rằng: “Kinh sử đã từng,

Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.

Hỏi thời ta phải nói ra,

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”

Tiên rằng: “Trong đục chưa tường

Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào

Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.

Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời U, Lệ đa đoan,

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời Ngũ bá phân vân,

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Ghét đời thúc quý phân băng,

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Thương là thương đức thánh nhân,

Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.

Thương thầy Nhan Tử dở dang,

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.

Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.

Thương thầy Đồng Tử cao xa,

Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.

Thương ông Hàn Dũ chẳng may,

Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.

Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.

Xem qua kinh sử mấy lần,

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”.

(Theo Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu,

NXB Văn học, Hà Nội, 1971)

Hướng dẫn soạn bài – Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

I. Tác giả

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) sinh tại làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, mất tại Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu khá lận đận.

Lớn lên và theo đuổi nghiệp khoa cử vào lúc xã hội loạn lạc, đất nước rơi vào hoạ xâm lăng, bản thân lại mù lòa từ năm 25 tuổi. Bỏ dở nghiệp thi cử, ông chuyển sang học thuốc, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh và mở trường dạy học.

II. Tác phẩm

Truyện Lục Vân Tiên là Truyện thơ Nôm bác học nhưng mang nhiều tính dân gian, được viết dưới hình thức thơ lục bát. Truyện Nôm là thể loại văn học khá phát triển trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – XIX. Đó là những thành tựu đáng tự hào của nền văn học dân tộc.

– Hoàn cảnh sáng tác: Khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX.

– Nội dung: Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác, nhằm đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và nhân dân đương thời về một xã hội tốt đẹp, ở đó mối quan hệ giữa con người với con người đều thấm đượm tình cảm yêu thương, nhân ái.

Đoạn trích Ghét lẽ thương là đoạn thơ trích từ câu 473 đến câu 504 của truyện Lục Vân Tiên, kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng nho sinh (Vân Tiên, Từ Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu, làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

III. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

Giải câu 1 (Trang 48 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Anh (chị) hãy đọc chú thích, tìm điểm chung giữa những đời vua mà ông Quán ghét và giữa những con người mà ông Quán thương. Từ đó hãy nhận xét về cơ sở của lẽ ghét thương theo quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu.

Trả lời:

– Những đời vua mà ông Quán ghét: đời Kiệt, Trụ, đời U, Lệ, đời Ngũ bá thời Xuân Thu, đời thúc quý.

→ Tất cả các triều đại được nhắc đến trong lời ông Quán đều có một điểm chung, đó là sự suy tàn. Những người đứng đầu nhà nước thì say đắm trong tửu sắc, không chăm lo đến đời sống nhân dân.

=> Phê phán các triều đại suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã đứng trên lập trường của nhân dân. Đó là cơ sở của sự ghét, ghét sâu sắc, cay nghiệt đến tột cùng cảm xúc.

– Những lẽ thương mà ông Quán hướng đến: đức thánh nhân, thầy Nhan Tử, ông Gia Cát, thầy Đồng Tử, người Nguyên Lượng, ông Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc.

→ Đây đều là những người có tài, có đức, có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân nhưng không đạt được sở nguyện của mình. Những con người này đều có những nét đồng cảnh với Nguyễn Đình Chiểu, bởi thế tình thương ở đây chính niềm cảm thông sâu sắc từ tấm lòng của nhà thơ.

=> Nguyễn Đình Chiểu đã xuất phát từ chính cuộc đời, từ sự an bình của nhân dân mà thương, tiếc cho những tài năng bị các triều đại vua chúa vùi dập.

Giải câu 2 (Trang 48 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Anh (chị) có nhận xét gì về cách dùng phép đối và phép điệp ở cặp từ ghét, thương trong đoạn thơ này? Nêu rõ giá trị nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.

Trả lời:

Đoạn trích khá thành công trong việc sử dụng cặp đối nghĩa ghét – thương. Từ ghét và thương đều được lặp lại 12 lần, sắp đặt sóng đôi, đăng đối khá linh hoạt (hay ghét – hay thương; thương ghét – ghét thương…) để qua đó giúp biểu hiện nổi bật và phân minh hai tình cảm trong tâm hồn tác giả. Với nhà thơ, ghét và thương rành rọt, không lẫn lộn và đều sâu nặng, không nhạt nhòa, chung chung. Việc lặp lại hai từ này cũng giúp tăng thêm cường độ cảm xúc trong: yêu thương và căm ghét đều đạt đến sự tột cùng, mãnh liệt.

Giải câu 3 (Trang 48 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Dựa vào cảm xúc của tác giả, hãy giải thích câu thơ ở phần đầu đoạn trích: Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.

Trả lời:

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Câu thơ mang tính chất triết lí đạo đức mà giàu chất trữ tình và dạt dào cảm xúc. Thương và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít với nhau trong tâm hồn nhà thơ. Tình cảm thương, ghét cứ đan xen nối tiếp nhau, hòa cùng một nhịp với cuộc đời, với nhân dân.

=> Đó là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.

Soạn phần luyện tập bài Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

Giải câu hỏi – Luyện tập (Trang 48 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Theo anh (chị), câu thơ nào trong đoạn trích có thể thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn? Hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận của mình về câu thơ đó.

Trả lời:

Câu thơ thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của đoạn trích là câu:

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Yêu và ghét là hai tình cám có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời trong tâm hồn của nhà thơ. Bới thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng, chí nguyện nên Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào những cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu, ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hoà cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyền Đình Chiểu vậy.

Đoạn thơ mang tính chất triết lí đạo đức mà không hề khô khan, cứng nhắc, trái lại vẫn giàu chất trữ tình và dạt dào cảm xúc. Những cảm xúc sâu sắc và nồng đượm đó xuất phát từ cõi tâm trong sáng, cao cả của nhà thơ, từ một trái tim nặng trĩu tình đời, tình người tha thiết.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

Câu 1. Anh (chị) hãy đọc chú thích, tìm điểm chung giữa những đời vua mà ông Quán ghét và giữa những con người mà ông Quán thương. Từ đó hãy nhận xét về cơ sở của lẽ ghét thương theo quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu.

Trả lời:

Những điều ông Quán ghét: 10 câu thơ trong đoạn trích nói về lẽ ghét. Ghét việc tầm phào, ghét vua Trụ mê dâm, U Vương, Lệ Vương gây ra nhiều mối rắc rối, Ngũ Bá chia rẽ, đổ nát, sớm đầu tối đánh …

⇒ Điểm chung của các vua chúa được nhắc đến: ăn chơi, hoang dâm vô độ, tranh quyền, đoạt lợi, không quan tâm đến chính sự đang rối ren, không nghĩ đến đời sống lầm than cực nhọc của dân. Căn nguyên của cái ghét ở đây là do lòng thương dân, vì dân, ghét những kẻ hại dân, làm cho nhân dân sa hầm sẩy hang, chịu lầm than, nhọc nhằn…

Với cái ghét là lẽ thương, 16 câu thơ kế tiếp như lời tự bạch của ông Quán về tình thương: thương những người có tài cao chí cả, muốn cứu đời, giúp dân nhưng lại gặp rủi ro, bất hạnh nên không thực hiện được chí hướng.

⇒ Lòng thương của ông Quán thật rộng lớn: thương Nhan Tử mất sớm, dở dang công danh; thương Gia Cát Lượng có tài thao lược không cứu vãn được thời Hán mạt; thương Đồng Trọng Thư tài đức hơn người mà bị dồn vào thế bí; thương Đào Tiềm khí tiết thanh cao lại lui về ở ẩn; thương Hàn Dũ can vua bị đày… Tác giả kể về các nho gia đáng kính, đồng thời cũng nói về người đời đáng kính. Đoạn thơ kết thúc:

Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương

Cho thấy vì thương nên ghét. Đây là hai mặt tình cảm đối lập nhưng xuất phát từ lòng thương dân sâu sắc. Nguyễn Đình Chiều tìm thấy bóng dáng mình trong đó: mơ ước lập thân để giúp đời nhưng lại gặp nhiều bất hạnh.

Câu 2. Anh (chị) có nhận xét gì về cách dùng phép đối và phép điệp ở cặp từ ghét, thương trong đoạn thơ này? Nêu rõ giá trị nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.

Trả lời:

Ghét và thương là hai tâm trạng đối lập. Từ ghét là thể hiện một trạng thái không thích, một hành động, một con người hay một điều gì đó, nhưng thương lại là một trạng thái hoàn toàn khác, nếu ghét là căm thù người khác, thì thương lại là nỗi niềm thương xót cho con người số phận hay con người nào đó.

– Phép đối: Từ ghét và thương đều được lặp lại 12 lần, sắp đặt sóng đôi, đăng đối khá linh hoạt. (hay ghét – hay thương; thương ghét – ghét thương; ghét ghét – thương thương; lại ghét – lại thương).Ở đây cách đặt như thế để biểu hiện sự đắn đó trong cách hành động của tác giả trước cuộc sống.

– Phép điệp cũng như sự vận dụng linh hoạt hai từ ghét – thương đã giúp biểu hiện nổi bật và phân minh hai tình cảm trong tâm hồn tác giả. Trong trái tim tác giả, ghét và thương rành rọt, không mập mờ, lẫn lộn và đều sâu nặng, không nhạt nhòa, chung chung. Việc lặp lại hai từ này cũng làm tăng cường độ của cảm xúc: yêu thương và căm ghét đều đạt đến độ tột cùng, đều hết sức nồng nhiệt.

Câu 3. Dựa vào cảm xúc của tác giả, hãy giải thích câu thơ ở phần đầu đoạn trích: Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.

Trả lời:

Tác giả đã thể hiện hai trạng thái tình cảm yêu ghét khác nhau, biểu hiện một cái gì đó riêng biệt, lạ lẫm và mang lại cho người đọc một cái nhìn quang minh về con người cũng như tính chất của sự vật và hiện tượng.

Con người luôn có những cũng bậc cảm xúc riêng, và những luân lý luân thường đó là nỗi ghét và niềm thương xót, một vị anh hùng có tài đức và có tấm lòng yêu thương dân chúng cao cả do có tấm lòng thương dân nên tác giả đã căm ghét những người hại dân, đó là những điều rất bình thường trong một con người có chí khí và khí phách luôn bảo vệ cho lợi ích của nhân dân.

Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu – ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.

Soạn phần luyện tập bài Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu) trang 48 SGK ngữ văn 11 tập 1

Câu hỏi: Theo anh (chị), câu thơ nào trong đoạn trích có thể thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn? Hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận của mình về câu thơ đó.

Trả lời:

Câu thơ có thể thâu tóm toàn bộ tư tưởng và tình cảm trong đoạn trích là “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”

Đoạn văn cảm nhận về câu thơ:

Tác giả đã đặt hai trạng thái tình cảm, cảm xúc hoàn toàn trái ngược trong một câu thơ giúp con người ta có thể nhìn nhận rõ hơn về lẽ yêu, lẽ ghét của ông quán. Chứng kiến cảnh tượng dân lầm than, đói khổ trong khi vua chúa, quan lại ăn chơi tráng tác, sa hoa lãng phí thì phàm là những người yêu nước thương dân không ai có thể ngồi yên được. Càng thương dân bao nhiêu thì nỗi căm ghét với xã hội và tầng lớp quan lại quý tộc bấy nhiêu. Cũng như thế, những con người đức hạnh, thương dân càng được nể trọng, yêu quý bao nhiêu thì những kẻ tầm phào, dốt nát, sĩ diện lại càng bị ghét bỏ, ruồng rẫy bấy nhiêu. Trái tim con người có những cung bậc cảm xúc rất đa dạng, phức tạp cho nên hai tình cảm yêu – ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status