Soạn bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới trang 26 – 31 SGK ngữ văn lớp 9 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
Chuẩn Bị Hành Trang(1) Vào Thế Kỷ Mới
Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt trước khi bước vào nền kinh tế mới.
Tết năm nay(2) là sự chuyển tiếp giữa hai thế kỉ, và hơn thế nữa, là sự chuyển tiếp giữa hai thiên niên kỉ(3). Trong thời khắc như vậy, ai ai cũng nói tới việc chuẩn bị hành trang bước vào thế kỉ mới, thiên niên kỉ mới.
Trong những hành trang ấy, có lẽ xự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất. Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử. Trong thế kỉ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức(4) sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò con người lại càng nổi trội.
Cần chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỉ mới, trong khi chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như huyền thoại(5) của khoa học và công nghệ, làm cho tỉ trọng trí tuệ trong một sản phẩm ngày càng lớn
Chắc rằng chiều hướng này sẽ ngày càng gia tăng. Một phần dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa(6), hội nhập(7) giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều.
Trong một thế giới như vậy, nước ta lại phải cùng một lúc giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó.
Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng(8) chạy theo những môn học “thời thượng”(9), nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng.
Cái mạnh của con người Việt Nam ta là sự cần cù, sáng tạo. Điều đó thậ hữu ích trong một nền kinhtế đòi hỏi tinh thần kỉ luật cao và thái độ nghiêm túc đối với công vụ và quy trình lao động với những máy móc, thiết bị rất tinh vi.
Tiếc rằng ngay trong mặt mạnh này của chúng ta cũng lại ẩn chứa những khuyết tật không tương tác(10) chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hoá chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức. Người Việt Nam ta cần cù thì cần cù thật, nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ. Khác với người Nhật vốn cũng nổi tiếng cần cù lại thường rất cẩn trọng trong khâu chuẩn bị công việc, làm cái gì cũng tính toán chi li từ đầu, người Việt Nam ta thường dựa vào tính tháo vát của mình, hành động theo phương châm “nước đến chân mới nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”.
Do còn chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và cách sống ở nơi thôn dã vốn thoải mái và thanh thản nên người Việt Nam ta chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Ngay bản tính “sáng tạo” một phần nào đó cũng có mặt trái ở chỗ ta hay loay hoay “cải tiến”, làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ. Trong một xã hội công nghiệp và “hậu công nghiệp”, những khuyết tật ấy sẽ là những vật cản ghê gớm.
Trong một “thế giới mạng”, ở đó hàng triệu người trên phạm vi toàn cầu gắn kết với nhau trong một mạng in-tơ-nét thì tính cộng đồng là một đòi hỏi không thể thiếu được. Nhân dân ta có truyền thống lâu đời đùm bọc, đoàn kết với nhau theo phương châm “nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Bản sắc này thể hiện mạnh mẽ nhất trong cảnh đất nước lâm nguy, ngoại bang đe dọa. Nhưng tiếc rằng phẩm chất cao quý ấy thường lại không đậm nét trong việc làm ăn, có thể do ảnh hưởng của phương thức sản xuất nhỏ, tính đố kị vốn có của lối sống theo thứ bậc không phải theo năng lực và lối nghĩ “trâu buộc ghét trâu ăn” đối với người hơn mình ở làng quê thời phong kiến. Ta có thể quan sát điều đó ngay trong cả những việc nhỏ nhặt: Ví dụ vào thăm bảo tàng thì người Nhật túm tụm vào với nhau chăm chú nghe thuyết minh, còn người Việt Nam lại lập tức tản ra xem những thứ mình thích; người Hoa ở nước ngoài thường cưu mang nhau song người Việt lại thường đố kị nhau…
Bước vào thế kỉ mới, nước ta sẽ hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Bản tính thích ứng nhanh sẽ giúp dân ta tận dụng những cơ hội, ứng phó với thách thức do tiến trình hội nhập đem lại. Nhưng thái độ kì thị(11) đối với sự kinh doanh, thói quen ảnh hưởng sự bao cấp(12), nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức đều sẽ cản trở sự phát triển của đất nước. Thói quen ở không ít người thích tỏ ra “khôn vặt”, “bóc ngắn cắn dài”, không coi trọng chữ “tín” sẽ gây tác hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập.
Bước vào thể kỉ mới, muốn “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” thì chúng ta sẽ phải lấp đấy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là hãy làm cho lớp trẻ – những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỉ tới – nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.
(Vũ Khoan(*), trong Một góc nhìnc ủa trí thức, tập I, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2002)
Chú thích:
(*) Vũ Khoan: nhà hoạt động chính trị, nhiều năm là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Thương mại, hiện là Phó Thủ tướng Chính phủ.
Bài viết này đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001 và được in vào tập Một góc nhìn của trí thức, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, năm 2002. Nhan đề bài viết của tác giả là Chuẩn bị hành trang; khi đưa vào sách giáo khoa, người biên soạn có bổ sung một số chữ vào nhan đề cho cụ thể hơn và lược bớt một câu ở phần đầu.
(1) Hành trang: đồ dùng mang theo và các thứ trang bị khi đi xa. Ở đây dùng với nghĩa là hành trang tinh thần như tri thức, kĩ năng, thói quen,… để đi vào một thời kì mới.
(2) Tết năm nay: Tết năm Tân Tị, 2001, là năm mở đầu thế kỉ XXI và thiên niên kỉ thứ ba, tính từ đầu Công nguyên theo dương lịch.
(3) Thiên niên kỉ: từng khoảng thời gian một nghìn năm, tính từ năm 1 sau Công nguyên trở đi (hoặc từ năm 1 trước Công nguyên trở về trước).
(4) Kinh tế tri thức: khái niệm chỉ một trình độ phát triển rất cao của nền kinh tế mà trong đó tri thức, trí tuệ chiếm một tỉ trọng cao trong giá trị của các sản phẩm và trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân.
(5) Huyền thoại: chuyện kì lạ được sáng tạo bằng tưởng tượng.
(6) Sự giao thoa: một khái niệm vật lí học về hiện tượng hai hay nhiều sóng cùng tần số tăng cường hay làm yếu lẫn nhau khi gặp nhau tại cùng một điểm. Ở đây chỉ sự giao lưu, tác động lẫn nhau của các nền kinh tế trong cùng một thời kì.
(7) Hội nhập: hợp lại, nhập vào. Từ này được dùng để chỉ một đặc điểm và yêu cầu của thời đại ngày nay là các quốc gia, các nền kinh tế không thể biệt lập mà được hợp lại, nhập vào đời sống của toàn nhân loại và nền kinh tế thế giới.
(8) Thiên hướng: Khuynh hướng nghiêng về một bên nào đó một cách thiên lệch.
(9) Thời thượng: được một số đông người ham chuộng, ưa thích trong một thời gian nào đó nhưng không lâu bền
(10) Tương tác: tác động qua lại lẫn nhau.
(11) Kì thị: phân biệt đối xử do thành kiến.
(12) Bao cấp: cấp phát, phân phối, trả công mà không tính toán hoặc đòi hỏi hiệu quả kinh tế tương ứng.
Hướng dẫn soạn bài – Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
– Phần 1 (từ đầu đến “sâu rộng hơn nhiều”): Khẳng định sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất trong việc chuẩn bị hành trang bước vào thế kỉ mới.
– Phần 2 (tiếp theo đến “kinh doanh và hội nhập”): Những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam.
– Phần 3 (đoạn còn lại): Khẳng định vai trò chính yếu của thế hệ trẻ trong việc lấp đầy hành trang để đất nước bước vào thế kỉ mới hội nhập và phát triển.
II. Hướng dẫn soạn bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới chi tiết.
Giải câu 1 (Trang 30 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Tác giả viết bài này trong thời điểm nào của lịch sử? Bài viết đã nêu vấn đề gì? Ý nghĩa thời sự và ý nghĩa lầu dài của vấn đề ấy.
Những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức to lớn và cấp bách đang đặt ra cho đất nước ta, cho thế hệ trẻ hiện nay là gì?
Trả lời:
Bài viết của Phó Thủ tướng Vũ Khoan trong dịp mở đầu thế kỷ mới đã nêu ra một cách chính xác và kịp thời những vấn đề thiết thực đối với con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, lực lượng quyết định sự thành công của công cuộc xây dựng đất nước trong thế kỷ mới.
Nhiệm vụ của nước ta và thế hệ trẻ là:
– Đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp.
– Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
– Tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức
Giải câu 2 (Trang 30 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Hãy đọc lại cả bài và lập dàn ý theo trình tự lập luận của tác giả.
Trả lời:
Có thể xác định lại dàn ý của bài viết như sau:
Bài viết nêu ra ba ý lớn, mỗi ý lại được cụ thể hoá bằng một hệ thống luận cứ, dẫn chứng khá sinh động:
– Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con người.
– Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nước.
– Những cái mạnh, cái yếu của người Việt Nam cần được nhận thức rõ trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới.
Giải câu 3 (Trang 30 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Trong bài này, tác giả cho rằng: “Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị cho bản thân con người là quan trọng nhất”. Điều đó có đúng không? Vì sao?
Trả lời:
Trong hành trang vào thế kỷ mới, sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất, bởi vì:
– Con người bao giờ cũng là động lực phát triển của lịch sử.
– Trong thời kỳ nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, con người lại càng có vai trò nổi bật.
Giải câu 4 (Trang 30 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Tác giả đã nêu ra và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu nào trong tính cách, thói quen của người Việt Nam ta? Những điểm mạnh, điểm yếu ấy có quan hệ như thế nào với nhiệm vụ đưa đất nước đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hóa trong thời đại ngày nay?
Trả lời:
Khi nêu ra những ưu điểm và nhược điểm của người Việt Nam, tác giả đã không làm một phép liệt kê giản đơn từ ưu điểm đến nhược điểm mà cứ mỗi khi nêu một ưu điểm, tác giả lại đề cập đến một nhược điểm. Điều đáng chú ý là những ưu điểm và nhược điểm đó luôn được đặt trong yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Cụ thể:
– Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng lại thiếu kiến thức cơ bản, kiến thức thực hành.
– Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ lao động khẩn trương.
– Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau nhưng đồng thời lại cũng thường đố kị nhau trong công việc.
– Bản tính thích ứng nhanh nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen, nếp nghĩ, quen bao cấp, rất sùng ngoại nhưng có khi lại bài ngoại đến mức cực đoan, khôn vặt, ít giữ chữ “tín”.
Giải câu 5 (Trang 30 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Em đã học và đọc nhiều tác phẩm văn học và những bài học lịch sử nói về các phẩm chất truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Những nhận xét của tác giả có gì giống và có điểm nào khác với những điều mà em đã đọc được trong các sách vở nói trên? Thái độ của tác giả như thế nào khi nêu những nhận xét này?
Trả lời:
Bài viết này đã mang đến cho bạn đọc cảm giác rất bất ngờ. Khác với các bài viết thông thường chỉ tập trung ca ngợi điểm mạnh, điểm tốt của của người Việt Nam, ở đây, tác giả không ca ngợi một chiều, cũng không chỉ toàn phê phán một cách cực đoan mà nhìn nhận song song, đối chiếu và đánh giá những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của người Việt Nam trong quan hệ với công việc, trong yêu cầu của sự phát triển xã hội. Đó là sự đánh giá rất khách quan và khoa học, xuất phát từ thiện chí của tác giả muốn để chúng ta nhìn nhận về mình một cách đúng đắn, chân thực, ý thức được những mặt tốt cũng như mặt chưa tốt của mình để phát huy hoặc sửa đổi.
Giải câu 6 (Trang 30 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Trong văn bản, tác giả sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ. Hãy tìm những thành ngữ, tục ngữ ấy và cho biết ý nghĩa, tác dụng của chúng.
Trả lời:
Trong văn bản, tác giả đã sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ: “nước đến chân mới nhảy”, “trâu buộc ghét trâu ăn”, “liệu cơm gắp mắm”, “bóc ngắn cắn dài”… Việc sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian như vậy khiến cho bài viết thêm phần sinh động, cụ thể, giàu ý nghĩa.
Soạn phần luyện tập bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 31 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Em hãy nêu những dẫn chứng trong thực tế xã hội và nhà trường để làm rõ một số điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam: cần cù, thông minh, sáng tạo; kém khả năng thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn.
Trả lời:
Những dẫn chứng trong thực tế xã hội và nhà trường để làm rõ một số điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam như nhận định của tác giả.
Những dẫn chứng trong thực tế xã hội về một số điểm mạnh của con người Việt Nam:
-> Sự cần cù, sáng tạo:
– Bác Vũ Đình Phúc (đường Nguyễn Siêu, Xóm Mới, phường 7, TP Đà Lạt) đã giành 2 năm mày mò nghiên cứu để sản xuất ra máy xay phế phẩm nông nghiệp làm phân hữu cơ, tận dụng phế phẩm nông nghiệp, giảm rác thải đồng thời phục vụ sản xuất.
– Lê Huy Hiệu và Thân Trọng Tuấn khi còn là học sinh lớp 9A, trường THCS Hải Sơn, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị đã sáng tạo ra bẫy điện có chức năng thu nạp điện năng để phục vụ cho sinh hoạt từ những dụng cụ tự chế và được lắp tại ở gờ giảm tốc trên đường.
-> Truyền thống đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau:
– Thời kì chiến tranh, nhân dân các làng bản, vùng quê đem lương thực nuôi bộ đội, giúp bộ đội tránh khỏi sự lùng sục của kẻ thù, sự đoàn kết của quân dân ta đã đánh bại hai kẻ thù lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
– Đoàn Trường Sinh ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang 10 năm cõng người bạn bị liệt cả hai chân đi học.
– Nguyễn Văn Nam sinh năm 1995, quê ở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã 3 lần cứu sống 9 người sắp bị chết đuối, trong lần cứu 5 em nhỏ bản thân Nam đã bị chết đuối.
Những dẫn chứng trong thực tế xã hội về một số điểm yếu của con người Việt Nam
->Thói quen “khôn vặt”, “bóc ngắn cắt dài”, không coi trọng chữ “tín”: các cửa hàng bán rượu trên phố Hàng Buồm, Tạ Hiện, Phan Bội Châu, chợ Hàng Da ở Hà Nội sử dụng những chai rượu lâu được vận chuyển từ các cửa khẩu, dán tem thành rượu hợp pháp và bán cho người dân.
->Lối học chay, học vẹt nặng nề: Học sinh học thuộc lòng kiến thức để làm các bài kiểm tra mà không hiểu bản chất của vấn đề, không thể vận dụng kiến thức ấy vào những trường hợp mang tính mở rộng.
Giải câu 2 – Luyện tập (Trang 31 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Em nhận thấy ở bản thân mình có những điểm mạnh và điểm yếu nào trong những điều tác giả đã nêu, và cả những điều tác giả chưa nói tới? Nêu phương pháp khắc phục những điểm yếu.
Trả lời:
Học sinh liên hệ thực tiễn bản thân để trả lời câu hỏi.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
Câu 1. Tác giả viết bài này trong thời điểm nào của lịch sử? Bài viết đã nêu vấn đề gì? Ý nghĩa thời sự và ý nghĩa lầu dài của vấn đề ấy.
Những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức to lớn và cấp bách đang đặt ra cho đất nước ta, cho thế hệ trẻ hiện nay là gì?
Trả lời:
– Tác giả viết bài này vào năm 2001, khi đất nước cùng thế giới đang bước vào năm đầu tiên của thế kỉ mới. Đó là thời điểm chuyển giao giữa 2 thế kỉ, 2 thiên niên kỉ.
– Tác giả đã nêu ra một vấn đề hệ trọng: chúng ta cần nhận thức như thế nào và làm những việc gì để chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới?
– Vấn đề ấy không chỉ có ý nghĩa thời sự trong thời điểm chuyển giao thế kỷ mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với cả quá trình đi lên của đất nước bởi vì để đáp ứng những nhiệm vụ nặng nề mà lịch sử và dân tộc đã giao phó, con người Việt Nam nói chung và lớp trẻ Việt Nam nói riêng không thể không nhận thức rõ những mặt mạnh cũng như những điểm còn hạn chế của mình để vừa phát huy những mặt tích cực, đồng thời khắc phục, sửa chữa những mặt còn yếu kém, không ngừng hoàn thiện mình, xứng đáng là chủ nhân của đất nước.
– Nhiệm vụ của nước ta và thế hệ trẻ là:
+ Đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức
Câu 2. Hãy đọc lại cả bài và lập dàn ý theo trình tự lập luận của tác giả.
Trả lời:
– Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con người.
– Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nước.
– Những cái mạnh, cái yếu của người Việt Nam cần được nhận thức rõ trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới.
Câu 3. Trong bài này, tác giả cho rằng: “Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị cho bản thân con người là quan trọng nhất”. Điều đó có đúng không? Vì sao?
Trả lời:
“Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất” là quan điểm đúng bởi lẽ:
– Con người bao giờ cũng là động lực phát triển của lịch sử.
– Trong thời kỳ nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, con người lại càng có vai trò nổi bật.
Câu 4. Tác giả đã nêu ra và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu nào trong tính cách, thói quen của người Việt Nam ta? Những điểm mạnh, điểm yếu ấy có quan hệ như thế nào với nhiệm vụ đưa đất nước đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hóa trong thời đại ngày nay?
Trả lời:
Khi nêu ưu điểm và nhược điểm của con người Việt Nam, tác giả đã nêu ra những ưu điểm và xen kẽ những nhược điểm được đặt trong mối quan hệ mật thiết với nhiệm vụ đưa đất nước lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
– Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng lại thiếu kiến thức cơ bản, kiến thức thực hành.
– Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ lao động khẩn trương.
– Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau nhưng đồng thời lại cũng thường đố kị nhau trong công việc.
– Bản tính thích ứng nhanh nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen, nếp nghĩ, quen bao cấp, rất sùng ngoại nhưng có khi lại bài ngoại đến mức cực đoan, khôn vặt, ít giữ chữ “tín”.
Câu 5. Em đã học và đọc nhiều tác phẩm văn học và những bài học lịch sử nói về các phẩm chất truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Những nhận xét của tác giả có gì giống và có điểm nào khác với những điều mà em đã đọc được trong các sách vở nói trên? Thái độ của tác giả như thế nào khi nêu những nhận xét này?
Trả lời:
Bài viết này đã mang đến cho bạn đọc cảm giác rất bất ngờ. Khác với các bài viết thông thường chỉ tập trung ca ngợi điểm mạnh, điểm tốt của của người Việt Nam, ở đây, tác giả không ca ngợi một chiều, cũng không chỉ toàn phê phán một cách cực đoan mà nhìn nhận song song, đối chiếu và đánh giá những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của người Việt Nam trong quan hệ với công việc, trong yêu cầu của sự phát triển xã hội. Đó là sự đánh giá rất khách quan và khoa học, xuất phát từ thiện chí của tác giả muốn để chúng ta nhìn nhận về mình một cách đúng đắn, chân thực, ý thức được những mặt tốt cũng như mặt chưa tốt của mình để phát huy hoặc sửa đổi.
Câu 6. Trong văn bản, tác giả sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ. Hãy tìm những thành ngữ, tục ngữ ấy và cho biết ý nghĩa, tác dụng của chúng.
Trả lời:
Trong văn bản, tác giả đã sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ: “nước đến chân mới nhảy”, “trâu buộc ghét trâu ăn”, “liệu cơm gắp mắm”, “bóc ngắn cắn dài”… Việc sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian như vậy khiến cho bài viết thêm phần sinh động, cụ thể, giàu ý nghĩa.
Soạn phần luyện tập bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới trang 31 SGK ngữ văn 9 tập 2
Câu 1. Em hãy nêu những dẫn chứng trong thực tế xã hội và nhà trường để làm rõ một số điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam: cần cù, thông minh, sáng tạo; kém khả năng thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn.
Trả lời:
– Các thành viên trong một lớp rất đoàn kết, tuy nhiên vẫn có sự đố kị khi các bạn trong lớp có thành tích tốt.
– Khi vào công ty mới, dù làm quen với mọi người rất tốt nhưng mà đôi khi vẫn giữ những tật xấu cũ.
Câu 2. Em nhận thấy ở bản thân mình có những điểm mạnh và điểm yếu nào trong những điều tác giả đã nêu, và cả những điều tác giả chưa nói tới? Nêu phương pháp khắc phục những điểm yếu.
Trả lời:
Học sinh vận dụng vào bản thân để hoàn thành.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)