Soạn bài Luyện viết đoạn văn tự sự trang 97 – 99 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Luyện viết đoạn văn tự sự, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
Hướng dẫn soạn bài – Luyện viết đoạn văn tự sự.
I. Đoạn văn trong văn bản tự sự
1. Đoạn văn là bộ phận của văn bản. Trong văn bản tự sự, mỗi đoạn văn thường có câu nêu ý khái quát, gọi là câu chủ đề. Các câu khác diễn đạt những ý cụ thể nhằm thuyết minh, miêu tả, giải thích, mở rộng… triển khai làm rõ ý khái quát.
2. Mỗi văn bản tự sự thường gồm nhiều loại đoạn văn với những nhiệm vụ khác nhau: đoạn (các đoạn) của phần mở bài có nhiệm vụ giới thiệu câu chuyện; các đoạn ở thân bài kể diễn biến của các sự việc, chi tiết; đoạn (các đoạn) kết bài kết thúc câu chuyện, tạo ấn tượng mạnh tới suy nghĩ, cảm xúc của người đọc.
3. Nội dung mỗi đoạn văn tuy khác nhau (tả cảnh, tả người, kể sự việc, biểu cảm,…), nhưng nó đều có chung nhiệm vụ là thể hiện chủ đề và ý nghĩa của văn bản.
II. Cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự
Giải câu 1 – Cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự (Trang 97 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Trong bài Lập dàn ý bài văn tự sự, chúng ta được nghe nhà văn Nguyên Ngọc kể: “cái truyện ngắn này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu – mà tôi se ra sức tả một cách hết sức tạo hình […] và truyện sẽ kết thúc bằng một cảnh rừng xa nu, nhưng một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận […]”.
Viết Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành (tức Nguyên Ngọc) mở đầu và kết thúc tác phẩm như sau:
– Mở đầu: Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã ngục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã nga… Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
– Kết thúc: Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến cửa rừng xà nu gần con nước lớn. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê.
Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
a) Theo anh (chị), các đoạn văn trên có thể hiện đúng như dự kiến của tác giả không? Nội dung và giọng điệu của các đoạn văn mở đầu và kết thúc có nét gì giống nhau, khác nhau?
b) Anh (chị) học được điều gì ở cách viết đoạn văn của Nguyên Ngọc?
Trả lời:
a) Các đoạn văn đã thể hiện đúng và rõ ràng những dự kiến của tác giả trước khi viết truyện. Nội dung và giọng điệu của các đoạn văn mở đầu và kết thúc:
– Giống nhau là: Cả đoạn mở đầu và kết thúc đều miêu tả cảnh rừng xà nu. Nó tạo thành một kết cấu vòng tròn – mở. Kết cấu này vừa đảm bảo sự chặt chẽ về bố cục, vừa tập trung làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Không những thế, kết cấu kiểu vòng tròn – mở còn gọi cho người đọc những suy nghĩ để liên tưởng “mở rộng vấn đề”.
– Khác nhau: Hai đoạn mở đầu miêu tả cánh rừng xà nu cụ thể sinh động bằng những chi tiết nghệ thuật giữa sức tạo hình nhằm để tạo không khí cho câu chuyện và để dẫn dắt, lôi cuốn người đọc. Trong khi đó đoạn cuối truyện chủ yếu miêu tả cảnh rừng xà nu mờ dần và bất tận nhằm tạo cho ng-ười đọc cảm giác về sự bất diệt của rừng cây và sức sống mãnh liệt của con người.
b) Qua việc tìm hiểu các giai đoạn sáng tác tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyên Ngọc, chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm: trước khi viết hoặc kể chuyện cần suy nghĩ, dự kiến trước phần mở đầu và kết thúc của bài văn. Có như vậy bài văn sẽ có một mạch thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng và lôi cuốn người đọc, người nghe hơn
Giải câu 2 – Cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự (Trang 98 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Trong câu chuyện về hậu thân của chị Dậu ở bài Lập dàn ý bài văn tự sự, một bạn học sinh đã viết như sau:
Vậy là chị được cử về Đông Xá, về cái làng quê bé nhỏ, nghèo khổ của chị. Vừa đặt chân tới con đê cao, con đê chắn ngang mấy nếp nhà lụp xụp, chị Dậu chợt nhìn thấy ở chân trời phía đông một vừng hồng ửng lên /…/. Một đoàn người áo quần rách rưới, nhưng nét mặt ai cũng hồ hởi, từ trong làng đi ra. Người cầm gậy, kẻ cầm dao, cầm kiếm, vác cờ đỏ, ào tới vây lấy chị. Người nông dân khốn khổ từng chạy trốn trong cái đêm đen ấy bỗng úa nước mắt /…/. Cố nén xúc động, chị Dậu dang rộng đôi cánh tay như muốn ôm lấy mọi người, rồi nghẹn ngào nói:
– Cách mạng thành công rồi! Cả dân tộc đã đứng dậy! Bà con ơi, chúng ta hãy lên huyện bắt bọn quan lại, phá kho thóc, chia cho dân nghèo.
a) Có thể coi đây là đoạn văn trong văn bản tự sự được không, vì sao? Theo anh (chị), đoạn văn đó thuộc phần nào của “truyện ngắn” mà bạn học sinh định viết?
b) Viết đoạn văn này, bạn học sinh đã thành công ở nội dung nào, nội dung nào bạn còn phân vân và để trống?Anh chị hãy viết tiếp vào những chỗ để trống đó (dấu ba chấm) để cùng bạn hoàn chỉnh đoạn văn định viết.
Trả lời:
a) Đoạn văn này thuộc phần thân bài (phần phát triển) trong “truyện ngắn” mà bạn học sinh định viết. Đoạn văn này đã kể lại một sự việc quan trọng, đó là chuyện “Chị Dậu về làng lãnh đạo cuộc nổi dậy khi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra”. Sự việc ấy phù hợp với chủ đề và cốt truyện mà bạn học sinh đã nêu ra và lập dàn ý. Có thể xem đây là đoạn văn trong văn bản tự sự.
b) Có thể nói, đoạn văn trên mới chỉ thành công trong việc “kể” lại câu chuyện. Nhược điểm của đoạn văn là việc sắp xếp những đoạn tả cảnh, tả tâm trạng còn chưa nhuyễn, chưa hay. Văn phong còn lúng túng, gượng gạo.
– Có thể sửa chữa lại hai chỗ “lúng túng” trong đoạn văn của bạn học sinh như sau:
“… Đặt chân tới con đê cao, con đê chắn ngang nếp nhà lụp xụp của gia đình chị đúng lúc ở phía trời đông ông mặt trời bắt đầu thắp sáng bình minh bằng những ánh hồng rực rỡ, chị Dậu bỗng chợt nhìn thấy một đoàn ng-ười…”.
“Người đàn bà nhà quê khốn khổ từng chạy trốn trong cái đêm đen ấy vui mừng đến rơi nước mắt. Nhưng cố nén xúc động…”.
Giải câu 3 – Cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự (Trang 99 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Qua kinh nghiệm của nhà văn Nguyên Ngọc và thu hoạch từ hai bài tập trên, anh (chị) hãy nêu cách viết đoan văn trong bài văn tự sự.
Trả lời:
Từ kinh nghiệm học được ở nhà văn Nguyên Ngọc và đoạn viết về hậu thân của chị Dậu, có thể rút ra một vài ghi nhớ về cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự:
– Khi viết đoạn mở bài và đoạn kết thúc, cần dựa vào đề tài và cốt truyện để xác định nội dung. Hai đoạn văn này cần phải được đảm bảo sao cho ý tứ phải thống nhất và hô ứng với nhau.
– Sau đoạn mở đầu, vẫn phải dựa vào cốt truyện, dựa vào chủ đề, tư tưởng của bài văn để viết các đoạn thân bài: đoạn miêu tả, đoạn giới thiệu nhân vật, đoạn kể việc, đoạn đối thoại,…
– Khi viết đoạn văn trong bài văn tự sự cần huy động năng lực quan sát, tưởng tượng, liên tưởng, những kiến thức về cuộc sống,… đồng thời cũng phải thành thạo các thao tác trong việc viết đoạn văn.
III. Luyện Tập
Giải câu 1 – Luyện Tập (Trang 99 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Một đoạn trích (từ Ngữ văn 9, tập hai) được chép lại như sau:
Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt cô gái. Cô rùng mình và bỗng thấy tại sao mình lại quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chảng lành. Hoặc là nógn từ bên trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng.
Chị Thao thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút trôi qua. Phương Định cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong, mềm. Cô khoả đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình.
Hồi còi thứ hai của chị Thao. Tôi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Không có gió. Tim Phương Định cũng đập không rõ. Dường như duy nhất vẫn bình tĩnh phớt lờ mọi biến động chunglà chiếc đồng hồ.
a) Anh (chị) cho biết đoạn trích trên kể sự việc gì? ở phần nào, của văn bản tự sự nào?
b) Đoạn trích chép ở đây có một số sai sót về ngôi kể, hãy chỉ rõ những chỗ sai đó rồi chữa lại cho hoàn chỉnh.
c) Từ sự phát hiện và chỉnh sửa đoạn trích trên, anh (chị) có thêm kinh nghiệm gì khi viết đoạn văn trong bài văn tự sự?
Trả lời:
a) Đoạn văn này kể lại sự việc cô Phương Định – một nữ thanh niên xung phong đang phá bom để mở đường ra mặt trận. Đây là đoạn văn nằm ở phần thân bài (phần phát triển) của văn bản tự sự Những ngôi sao xa xôi (truyện ngắn của Lê Minh Khuê).
b) Đoạn văn được chép lại có một số sai sót về ngôi kể.
Trong truyện ngắn, người kể chuyện (nhân vật Phương Định xưng tôi, kể chuyện về bản thân mình và tổ thanh niên xung phong). Một số câu trong đoạn này, đại từ “tôi” đã bị thay bằng “cô gái” (câu 5); “Cô” (câu 6, 16), danh từ riêng “Phương Định” (câu 14, 20). Cần sửa lại để văn bản được thống nhất về ngôi kể (ngôi thứ nhất – xưng tôi).
c) Từ những phát hiện và chỉnh sửa trên có thể rút ra bài học:
Trong văn bản tự sự, người viết cần nhất quán về ngôi kể. Nếu không có sự thay đổi về người kể thì ngôi kể ấy sẽ phải thống nhất từ đoạn đầu đến các đoạn tiếp theo. Có như vậy, văn bản tự sự mới chặt chẽ, lôgic, hấp dẫn và thuyết phục người đọc
Giải câu 2 – Luyện Tập (Trang 99 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Viết một đoạn văn diễn tả cử chỉ và tâm trạng của cô gái trong 9 câu đầu đoạn trích truyện thơ Tiễn dặn người yêu.
Trả lời:
Viết đoạn văn thuật lại cử chỉ và tâm trạng của cô gái bị ép duyên trong đoạn trích truyện thơ Tiễn dặn người yêu.
Dựa vào gợi ý sau để hoàn thành đoạn văn:
Nỗi niềm dồn nghẹt con tim, cô gái chân bước trong thẫn thờ, khiến “Chân bước xa lòng càng đau càng nhớ”. Người ra đi mang theo sự lưu luyến khôn nguôi (vừa đi vừa ngoảnh… trông) như muốn chờ đợi chàng trai. Đôi chân cứ bước đi nhưng lòng nặng trĩu nỗi niềm: đi theo 1 người mà mình không hề yêu thương, bỏ lại sau lưng 1 mối tình đẹp đẽ (đau đớn dồn nén). Đường cô gái đi rất dài, nơi cô đến: rừng ớt, rừng cà, rừng lá ngón, hành động: ngắt lá ớt, lá cà, chờ, đợi, ngóng trông. Lá ớt, lá cà, lá ngón đều là lá độc –> cô gái như muốn kết thúc số phận của mình, để khỏi đi theo người chồng xa lạ, người chồng mà cô không hề yêu thương, muốn được sống bên chàng trai –> ước muốn được tự do yêu đương của con người.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Luyện viết đoạn văn tự sự
I. Đoạn văn trong văn bản tự sự
II. Cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự
Câu 1. Trong bài Lập dàn ý bài văn tự sự, chúng ta được nghe nhà văn Nguyên Ngọc kể: “cái truyện ngắn này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu – mà tôi se ra sức tả một cách hết sức tạo hình […] và truyện sẽ kết thúc bằng một cảnh rừng xa nu, nhưng một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận […]”.
Viết Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành (tức Nguyên Ngọc) mở đầu và kết thúc tác phẩm như sau:
– Mở đầu: Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã ngục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã nga… Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
– Kết thúc: Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến cửa rừng xà nu gần con nước lớn. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê.
Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
a) Theo anh (chị), các đoạn văn trên có thể hiện đúng như dự kiến của tác giả không? Nội dung và giọng điệu của các đoạn văn mở đầu và kết thúc có nét gì giống nhau, khác nhau?
b) Anh (chị) học được điều gì ở cách viết đoạn văn của Nguyên Ngọc?
Trả lời:
a) – Các đoạn văn trên đã thể hiện đúng như dự kiến của tác giả.
Giống nhau | Khác nhau | |
Nội dung | Đều mô tả hình ảnh khu rừng xà nu. | – Đoạn mở đầu: Mô tả hình ảnh khu rừng xà nu đang anh dũng che chở cho làng trước bom đạn kẻ thù. |
– Đoạn kết thúc: Mô tả hình ảnh khu rừng xà nu vươn mình sinh sôi, không ngừng phát triển, bất chấp những vết thương. | ||
Giọng điệu | Trân trọng, yêu mến xen lẫn xót xa. | – Đoạn mở đầu: giọng xót xa là giọng chủ đạo. |
– Đoạn kết thúc: Giọng tự hào, ngợi ca là giọng chủ đạo. |
b) Tác giả Nguyên Ngọc đã viết đoạn văn theo kết cấu đầu cuối tương ứng, sử dụng cùng một biểu tượng ở đoạn mở đầu và đoạn kết thúc, tạo nên kết nối về mặt logic cốt truyện cũng như ý nghĩa biểu tượng cho bài văn.
Câu 2. Trong câu chuyện về hậu thân của chị Dậu ở bài Lập dàn ý bài văn tự sự, một bạn học sinh đã viết như sau:
Vậy là chị được cử về Đông Xá, về cái làng quê bé nhỏ, nghèo khổ của chị. Vừa đặt chân tới con đê cao, con đê chắn ngang mấy nếp nhà lụp xụp, chị Dậu chợt nhìn thấy ở chân trời phía đông một vừng hồng ửng lên /…/. Một đoàn người áo quần rách rưới, nhưng nét mặt ai cũng hồ hởi, từ trong làng đi ra. Người cầm gậy, kẻ cầm dao, cầm kiếm, vác cờ đỏ, ào tới vây lấy chị. Người nông dân khốn khổ từng chạy trốn trong cái đêm đen ấy bỗng úa nước mắt /…/. Cố nén xúc động, chị Dậu dang rộng đôi cánh tay như muốn ôm lấy mọi người, rồi nghẹn ngào nói:
– Cách mạng thành công rồi! Cả dân tộc đã đứng dậy! Bà con ơi, chúng ta hãy lên huyện bắt bọn quan lại, phá kho thóc, chia cho dân nghèo.
a) Có thể coi đây là đoạn văn trong văn bản tự sự được không, vì sao? Theo anh (chị), đoạn văn đó thuộc phần nào của “truyện ngắn” mà bạn học sinh định viết?
b) Viết đoạn văn này, bạn học sinh đã thành công ở nội dung nào, nội dung nào bạn còn phân vân và để trống?Anh chị hãy viết tiếp vào những chỗ để trống đó (dấu ba chấm) để cùng bạn hoàn chỉnh đoạn văn định viết.
Trả lời:
a) – Có thể coi đây là đoạn văn trong văn bản tự sự, vì đoạn văn này chứa đựng một sự kiện tự sự: Chị Dậu dẫn đầu bà con nông dân đi phá kho thóc, lật đổ chính quyền áp bức.
– Đoạn văn này thuộc phần kết của “truyện ngắn”.
b) Đoạn văn thành công ở việc kể lại những chi tiết, diễn biến của sự kiện tự sự được nêu ra, tuy nhiên, tính liên kết của đoạn văn còn thấp vì vậy nội dung của đoạn văn có phần còn rời rạc.
Có thể viết tiếp vào chỗ /…/ như sau:
– Chị Dậu chợt nhìn thấy ở chân trời phía đông một vừng hồng ửng lên, một đoàn người đang đi tới.
– Người nông dân khốn khổ từng chạy trốn trong cái đêm đen ấy bỗng ứa nước mắt, chị nhìn kĩ khuôn mặt từng người đang đứng đây.
Câu 3. Qua kinh nghiệm của nhà văn Nguyên Ngọc và thu hoạch từ hai bài tập trên, anh (chị) hãy nêu cách viết đoan văn trong bài văn tự sự.
Trả lời:
– Để viết đoạn văn tự sự, cần hình dung sự việc xảy ra như thế nào rồi lần lượt kể lại diễn biến của nó. Khi viết, người viết phải chú ý sử dụng các phương tiện liên kết câu để đoạn văn được mạch lạc, chặt chẽ.
III. Luyện tập
Câu 1. Một đoạn trích (từ Ngữ văn 9, tập hai) được chép lại như sau:
Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt cô gái. Cô rùng mình và bỗng thấy tại sao mình lại quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chảng lành. Hoặc là nógn từ bên trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng.
Chị Thao thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút trôi qua. Phương Định cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong, mềm. Cô khoả đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình.
Hồi còi thứ hai của chị Thao. Tôi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Không có gió. Tim Phương Định cũng đập không rõ. Dường như duy nhất vẫn bình tĩnh phớt lờ mọi biến động chunglà chiếc đồng hồ.
a) Anh (chị) cho biết đoạn trích trên kể sự việc gì? ở phần nào, của văn bản tự sự nào?
b) Đoạn trích chép ở đây có một số sai sót về ngôi kể, hãy chỉ rõ những chỗ sai đó rồi chữa lại cho hoàn chỉnh.
c) Từ sự phát hiện và chỉnh sửa đoạn trích trên, anh (chị) có thêm kinh nghiệm gì khi viết đoạn văn trong bài văn tự sự?
Trả lời:
a) Đoạn trích trên kể sự việc Phương Định – một cô gái của tổ trinh sát mặt đường – đang làm nhiệm vụ phá bom. Đoạn trích thuộc phần giữa, trong văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của tác giả Lê Minh Khuê.
b) – Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom.
→ Ngôi kể bị thay đổi từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất.
→ Sửa lại: Phương Định dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom.
– Tôi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ.
→ Ngôi kể bị thay đổi từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất.
→ Cô nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ.
c) Khi viết đoạn văn trong văn bản tự sự phải chú ý tới ngôi kể. Ngôi kể trong văn bản tự sự phải phù hợp, thống nhất từ đầu tới cuối.
Câu 2. Viết một đoạn văn diễn tả cử chỉ và tâm trạng của cô gái trong 9 câu đầu đoạn trích truyện thơ Tiễn dặn người yêu.
Trả lời:
Cô gái trong đoạn trích truyện thơ Tiễn dặn người yêu vì gia đình sắp đặt mà phải chia tay mối tình thanh mai trúc mã của mình để về làm vợ người khác. Trên đường đến nhà chồng, cô vẫn quyến luyến, xót xa không thôi với mối tình sâu nặng từ thuở nhỏ. Cô vừa bước đi nhưng lại vừa ngoảnh lại ngoái trông, tìm kiếm bóng hình chàng trai. Cô gái đau khổ ấy chần chừ, nấn ná, không muốn rời khỏi nơi này. Cô tới rừng ớt, tới rừng cà, tới rừng lá ngón, mòn mỏi chờ đợi bóng hình quen thuộc mà cô luôn mong nhớ. Khi chàng trai mà cô yêu thương tới, cô liền bẻ lá xanh cho anh ngồi lại cạnh mình. Hành động gấp gáp, không một giây chần chừ ấy thể hiện tình cảm sâu nặng, khó phai giữa hai người.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)