Soạn bài – Lời tiễn dặn

Soạn bài Lời tiễn dặn trang 93 – 96 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Lời tiễn dặn, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

LỜI TIỄN DẶN

(Trích Tiễn dặn người yêu – truyện thơ dân tộc Thái)

TIỂU DẪN

Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) của dân tộc Thái là một truyện thơ nổi tiếng trong kho tàng truyện thơ các dân tộc thiểu số. Với 1846 câu thơ, Tiễn dặn người yêu là lời nhân vật trong cuộc kể lại câu chuyện tình yêu – hôn nhân của vợ chồng mình. Hai người vốn làm bàn với nhau từ thời thơ ấu. Lớn lên, họ yêu nhau. Nhưng khi chàng trai nhờ người làm mối dẫn đến xin cho ở rể thì cha mẹ cô gái gạt phắt. Họ đang lo lắng chưa biết tính sao thì một anh chàng lạ đến xin làm rể. Dẫu kẻ này chuẩn bị lễ vật cẩu thả, ứng xử vừa hèn hạ vừa thiếu lễ độ nhưng cha mẹ cô gái vì tối mắt trước tiền bạc, đã vội bằng long. Chàng đau khổ bỏ nhà ra đi, quyết làm giàu rồi sẽ trở về xin cưới cô gái. Cô gái ở lại kiên tâm chờ đợi người yêu. Hết hạn ở rể (1), người kia xin cưới, Đúng lúc đó, chàng trai trở về và đã giàu có, nhưng giờ cô gái thuộc về kẻ khác mất rồi. Anh đau đớn đi theo tiễn dặn người yêu đã cùng gắn bó từ lâu. Theo lời chàng trai dặn, cô gái cố làm ra vẻ vụng về, khiến nhà chồng chán mà trả cô về nhà cha mẹ.

Nhưng cô gái liền bị cha mẹ bán vào cửa nhà quan. Thất vọng quá, cô càng đau khổ, phá phách mạnh hơn: “Giã gạo – quăng chày; Phơi thóc – chửi sàn, mắng cót; Dỡ xôi – quật mâm vỡ” cốt sao được trả về cho gia đình. Nhưng nhà quan đã mua đứt cô rồi, không thể trả lại. Họ đưa cô ra chợ bán, nhưng chẳng ai buồn hỏi đến. Tàn chợ, để khỏi đem cô gái về, họ đổi cô lấy một cuộn lá dong. Người đổi được cô gái ngờ đâu… chính là người yêu thưở trước.

Nhưng chàng giờ đã có nhà cao cửa rộng, làm sao nhận ra cô gái trong thân phận tôi đòi nhếch nhác, tiều tụy! Một ngày mưa, không đi nương ngồi bên bếp lửa, cô gái tủi phận đem chiết đàn môi (1), kỉ vật tình yêu ra thổi, gợi lại lời thề thốt thưở nào. Chàng trai bàng hoàng nhận ra người yêu và quyết sẻ đôi tài sản đưa tiễn người vợ về nhà cha mẹ, rồi họ cưới nhau cho trọn lời ước cũ: “Không lấy được nhau khi mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông; Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già.”

Đoạn trích dưới đây miêu tả rất rõ tâm trạng của chàng trai trên đường tiễn cô gái về nhà chồng và phải chứng kiến cảnh cố bị chính người chồng đánh đập. Lời tiễn dặn gồm hai đoạn đều là lời của chàng trai. Đoạ (lời) đầu từ câu “Quảy gánh…” đến “…goá bụa về già”; đoạn (lời) thứ hai từ câu “Dậy đi em…” đến hết

CHÚ THÍCH

(1) Người Thái xưa có tục ở rể: trước khi lấy được cô gái làm vợ, chàng trai phải qua hai giai đoạn ở rể – từ 1 đến 3 năm là rể ngoài (đi làm cho nhà vơ và ở như khách); từ 3 đến 7 năm được làm rể trong (sống cùng vợ ở nhà vợ). Sau đó họ về nhà chồng hoặc ra ở riêng.

VĂN BẢN

Quảy gánh qua đồng ruộng,
Người đẹp anh yêu cất bước theo chông.
Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau nhớ.
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà gắt là cà ngồi đợi,
Tới rừng là ngón (2) ngóng trông.
Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em (3) mới chịu quay đi.
/…/
Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi (4)
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!

Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng (5), đừng buồn.
/…/
“Đôi ta yêu nhau, đợi tói tháng Nam lau nở,
Đợi mùa nước đỏ (6) cá về,
Đợi chim tăng ló (7) hót gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già.”
/…/

2.
– “Dậy đi em, dậy đi em ơi!
Dậy rũ áo kẻo bọ (8),
Dậy phủi áo kẻo lấm!
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ!”
Anh chặt tre về đốt gióng đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,
Lam (9) ông thuốc này em uống khỏi đau.
Tơ rối đôi ta cũng gỡ,
Tơ vò ta vuốt lại quay guồng;
Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thưở cũ.
Chết ba năm hình con treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.
Hỡi gốc dưa yêu mọc ngoài cồn cát,
Nước ngập gốc đáng lụi, đừng lụi,
Nước ngập rễ đáng bềnh, đừng bềnh.
Đôi ta yêu nhau, tình Lú – Ủa (10) mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông (11)
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng,
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già,
Ta yêu nhau tàn đời gió (12), không rung không chuyển,
Người xiểm xui, không ngoảnh không nghe

(Tiễn dặn người yêu – Xống chụ xom xao), Mạc Phi dịch, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1977

CHÚ THÍCH

(1) Đàn môi là thứ nhạc cụ nhỏ làm bằng miếng đồng mỏng, dài như chiếc là tre, ngậm trong miệng rồi dùng tay gảy một đầu cho rung lên hoà cùng hơi thở, tạo nên âm thanh để diễn đạt tình cảm

(2) Điêu Chính Ngâu chú thích ba câu 6, 7, 8 như sau: “Ngồi trên lá ớt, là cà gai, lá ngón là những lá độc. Ý nói mong chờ người yêu không thấy”

(3) Anh yêu em: tức “anh yêu của em”. Trong dân ca Thái và trong Tiễn dặn người yêu, nhân vật người con trai thường tự xưng nưh thế (cũng vậy, người con gái thường tự xưng “Em yêu anh”).

(4) Người Thái đen có tục hoả táng (thiếu xác). Muốn xác cháy đượm, vong hồn được siêu thoát theo quan niệm xưa của họ, cần có hơi hương của người thân yêu nhất. Cùng với thi hài, người ta đốt theo khăn, áo, vải hoặc vài ba sợi tóc của người thân coi như “thêm dầu” cho giàn hoả. Câu thơ ý nói: Không lấy được nhau coi như suốt đời không còn có ai thân yêu, đành mượn hơi hương da thịt người yêu ngay từ lúc này để mai sau có chết cũng không đến nỗi thành kẻ cô đơn, lửa xác được nhờ hơi ngày ngay mà cháy đượm, vong hồn được siêu thoát.

(5) “Con nhỏ”, “bé xinh”, “còn dòng” (dòng dõi), “còn rồng, con phượng” là cách gọi yêu của chàng trai đối với đứa con riêng của cô gái.

(6) Mùa nước đỏ: mùa nước lũ

(7) Chim tăng ló: một loài chim (tên đặt theo tiếng kêu) lông đẹp, màu xanh, hót vào mùa hạ, tiếng hót cao và buồn.

(8) Từ đây xuống là tâm trạng của chàng trai lại nhà chồng cô gái, khi chứng kiến cảnh người yêu bị nhà chồng đánh đập, hắt hủi. Bọ: cô gái bị đánh, ngã xuống đất, quần áo lấm bụi và các thứ sâu bọ bò lên.

(9) Lam: đun sôi hoặc nấu chín không dùng siêu (ấm) hay nồi mà dùng gióng tre, gióng nứa tươi.

(10) Câu thơ sử dụng hành ảnh so sánh mượn từ tích truyện cổ Chang Lú – nàng Ủa của dân tộc Kháng (Xá – Tây Bắc): Chàng Lú và nàng Ủa yêu nhau tha thiết từ nhỏ, lớn lên Ủa bị cha mẹ cưỡng gả cho một từ trưởng có thế lực. Cả hai cũng từ vẫn, kiện lên đến trời. Nhưng chính Trời lại là kẻ chủ mưu trong mọi chuyện. Họ bị đày thành hai ngôi sao (sao Khun Lú, sao Nàng Ủa) đứng một góc trời, mãi mãi trong đợi nhau mà không được gần nhau.

(11) Bán trâu ngoài chợ: trâu bán xong không tìm lại được; thu lúa muôn bông: lúa sau khi gặt không còn biết bông nào của ruộng nào.

(12) Tàn đời gió: hết một trận gió (suốt từ lúc gió nổi đến khi gió lặng là một đời gió, một trận gió). Ý câu thơ có thể hiểu là gió thổi mãi đến khi tàn mà tình yêu giữa hai người vẫn không thay đổi.

Hướng dẫn soạn bài – Lời tiễn dặn

I. Bố cục:

+ Phần 1 (từ đầu đến “ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già”): Tâm trạng đau buồn, xót xa, quyến luyến của chàng trai khi tiễn người yêu đi lấy chồng.

+ Phần 2 (đoạn còn lại): Sự kìm lòng của chàng trai cùng lời khẳng định tình yêu bền chặt, sâu nặng.

II. Hướng dẫn soạn bài Lời tiễn dặn chi tiết.

Giải câu 1 (Trang 96 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Diễn biết tâm trạng của chàng trai trên đường tiễn người yêu về nhà chồng như thế nào? Hãy phân tích những câu thơ, những dẫn chứng thể hiện tâm trạng đó.

Trả lời:

Phải tiễn người yêu về với nhà chồng, lòng Anh vô cùng đau xót. Thế nhưng trên đường đưa tiễn, Anh gọi chị là “người đẹp anh yêu”, khẳng định tình yêu trong Anh vẫn còn thắm thiết. Nhưng cũng có lúc, tình cảm của Anh mâu thuẫn với hiện thực khách quan là Chị đang “cất bước theo chồng” (thậm chí đã có con với chồng).

Lúc tiễn đưa, Anh có những cử chỉ, hành động dường như muốn níu kéo cho dài ra giây phút được ở thêm bên Chị. Anh phải được dặn Chị đôi câu thì mới “đành lòng” quay gót. Anh muốn ngồi lại bên Chị, âu yếu Chị để “ủ lấy hương người” cho mai sau “khi chết”, lửa xác (của mình) vẫn đượm hơi người thương yêu. Anh nựng con Chị mà như nựng chính con mình. Cách ứng xử ấy nói lên tình thương yêu vô bờ mà Anh dành cho Chị.

Như vậy, lúc tiễn đưa, Anh sống trong tâm trạng dằn vặt, day dứt khổ đau. Phải chăng chính vì thế mà hai câu thơ cuối đoạn như là một sự phá phách. Nó khẳng định cái ý chí quyết tâm đoàn tụ của cả hai người.

Giải câu 2 (Trang 96 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Phân tích những câu thơ mô tả hành động, tâm trạng của cô gái trên đường về nhà chồng. Cách mô tả ấy biểu lộ tình yêu của chàng trai đối với cô gái như thế nào?

Trả lời:

Đoạn thơ là lời của Anh, vì thế tâm trạng của chị chỉ là gián tiếp. Tuy được biểu hiện qua ánh mắt và suy nghĩ của của anh, thế nhưng, chúng ta vẫn có thể nhận ra, chị dường như cũng muốn níu kéo cho dài ra những giây phút cuối cùng ở bên anh. Chị chân bước đi mà đầu “còn ngoảnh lại” mắt còn “ngoái trông anh”, chân bước càng xa thì lòng càng đau đớn,… chính từ các tâm trạng ấy mà cứ mỗi lần qua một cánh rừng chị đều lấy đó là cái cớ để mà dừng lại đợi chờ anh.

Giải câu 3 (Trang 96 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Phân tích những câu thơ, những chi tiết thể hiện thái độ, cử chỉ ân cần của chàng trai đối với cô gái trong những ngày anh còn lưu lại ở nhà chồng của cô.

Trả lời:

Văn bản này đã lược đi đoạn mà Chị bị chồng đánh ngã lăn ra bên miệng cối gạo, bên “máng lợn vầy”.

Đoạn trích bắt đầu từ hành động chạy lại nâng đỡ chị dậy, phủi áo, chải tóc cho chị của anh. Sau đó, Anh còn đi chặt tre về làm ống lam thuốc cho chị ” uống khỏi đau “. Những hành động ấy rõ ràng biểu lộ niềm xót xa thương cảm của anh đối với nỗi đau của chị. Một sự cảm thông, đó là điều mà chị đang rất cần trong hoàn cảnh ấy.

Từ nỗi xót xa, trong lòng Anh bỗng bật lên ý chí quyết tâm đưa Chị về đoàn tụ với mình. Từ câu thơ “Tơ rối đôi ta cùng gỡ” đến hết đoạn chính là những câu thơ thể hiện cho cái ý chí và quyết tâm ấy.

Giải câu 4 (Trang 96 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Đoạn trích sử dụng rất nhiều câu thơ có cùng phép điệp (từ ngữ, hình ảnh, kiểu câu). Hãy tìm và nhận xét giá trị biểu cảm của những câu thơ đó.

Trả lời:

Đoạn trích có sử dụng rất nhiều câu thơ có sự trùng điệp từ, kiểu câu, ví dụ:

– Vừa đi vừa ngoảnh lại
Vừa đi vừa ngoái trông …

– Chết ba năm hình con treo đó
Chết thành sông vục nước uống mát lòng

Chết thành hồn, chung một mái song song.

– Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già…

Thể hiện nghệ thuật bằng cách sử dụng nhiều câu thơ với nhiều hình ảnh so sánh tương đồng, những hình ảnh ẩn dụ liên tiếp hay lớp lớp những câu có một cấu trúc cú pháp chung, tác giả dân gian muốn nhấn mạnh sự thuỷ chung son sắt trong tình yêu của đôi bạn trẻ. Nó cũng đồng thời khẳng định cái ý chí và ước mơ đoàn tụ không gì lay chuyển nổi của Anh và Chị. Chọn cách diễn đạt như vậy, tác giả dân gian đã mã hoá ngôn ngữ một cách thành công những cảm xúc đang trào dâng mãnh liệt trong lòng của những con người sống chất phác, mạnh mẽ giữa thiên nhiên núi rừng cường tráng.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Lời tiễn dặn

Câu 1. Diễn biết tâm trạng của chàng trai trên đường tiễn người yêu về nhà chồng như thế nào? Hãy phân tích những câu thơ, những dẫn chứng thể hiện tâm trạng đó.

Trả lời:

– Chàng trai đau đớn, xót xa vì người yêu thương đi lấy chồng, đôi lứa phải chia lìa: chân bước xa lòng càng đau nhớ, “đau” và “nhớ” thể hiện hai cung bậc, hai cấp độ của tâm trạng, nhấn mạnh mặc cảm về sự đổ vỡ, chia li.

– Chàng trai quyến luyến, không nỡ buông rời người mình yêu thương: vừa đi vừa ngoảnh lại, vừa đi vừa ngoái trông, hành động đi được đặt cạnh hai hành động ngược hướng “ngoảnh lại”, “ngoái trông” thể hiện sự giằng co, không thể dứt khoát của chàng trai.

– Chàng trai không thể giấu được tình yêu vô bờ của mình: xin hãy cho anh kề vóc mảnh….đừng buồn, chàng trai yêu thương cô gái, mong được ở cạnh cô dù chỉ một phút giây để thay lời tiễn dặn, chàng yêu thương cả con riêng của cô gái ấy.

– Chàng trai khẳng định tình yêu không thể phai mờ đối với người mình yêu thương dù phải chịu nỗi đau đớn: Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông; Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi qóa bụa về già.

Câu 2. Phân tích những câu thơ mô tả hành động, tâm trạng của cô gái trên đường về nhà chồng. Cách mô tả ấy biểu lộ tình yêu của chàng trai đối với cô gái như thế nào?

Trả lời:

– “Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ/ Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi/ Tới rừng lá ngón ngóng trông/ Anh tới nơi, em bẻ lá xanh anh ngồi”: Cô gái chần chừ, nán lại để đợi chờ chàng trai, mong được gặp người mình yêu lần cuối.

– Hành động của cô gái cho thấy tình cảm mà chàng trai dành cho cô vô cùng sâu nặng, khiến cô không thể nào quên đi, không thể nào dứt khoát quay lưng. Đó là một tình cảm chân thật, cao thượng.

Câu 3. Phân tích những câu thơ, những chi tiết thể hiện thái độ, cử chỉ ân cần của chàng trai đối với cô gái trong những ngày anh còn lưu lại ở nhà chồng của cô.

Trả lời:

– Đầu bù anh chải cho/ Tóc rối đưa anh búi hộ: Chàng trai chăm sóc cho cô gái, giúp cô sửa soạn để trở nên chỉn chu, xinh đẹp khi về nhà chồng.

– Anh chặt tre về đốt gióng đầu/ Chặt tre dày, anh hun gióng giữa/ Lam ống thuốc này em uống khỏi đau: Chàng trai chăm sóc cho sức khỏe của người mình yêu thương dù giờ đây cô đã là vợ người khác.

– Tơ rối đôi ta cùng gỡ/ Tơ vò ta vuốt lại quay guồng: Chàng trai chia sẻ với cô gái giúp đỡ cô những công việc thường ngày, ở bên cạnh lắng nghe, bầu bạn với cô.

⇒ Hoàn cảnh éo le không thể giết chết tình cảm chân thật của chàng trai, hoàn cảnh ấy càng khẳng định tình cảm của chàng trai đối với cô gái là vô cùng cao thượng, bền chặt, thật lòng muốn cô gái được hạnh phúc ở nhà chồng.

Câu 4. Đoạn trích sử dụng rất nhiều câu thơ có cùng phép điệp (từ ngữ, hình ảnh, kiểu câu). Hãy tìm và nhận xét giá trị biểu cảm của những câu thơ đó.

Trả lời:

– Phép điệp:

→ Vừa đi vừa ngoảnh lại/ Vừa đi vừa ngoái trông

→ tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ/ tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi/ tới rừng lá ngón ngóng trông

→ đợi tới tháng Năm lau nở/ đợi mùa nước đỏ cá về/ đợi chim tăng ló hót gọi hè

→ Chết ba năm hình còn treo đó/…/Chết thành hồn, chung một mái, song song

→ Nước ngập gốc đáng lụi, đừng lụi/ Nước ngập rễ đáng bềnh, đừng bềnh

→ Như bán trâu ngoài chợ/ Như thu lúa muôn bông

→ Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng/ Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già

→ Điệp từ ngữ: anh, em, ta, đôi ta.

– Ý nghĩa: những phép điệp được sử dụng dày đặc khiến nội dung tình cảm của bài thơ được thể hiện một cách cụ thể hơn, dễ hình dung hơn, nỗi lòng của chàng trai và cô gái trong bài thơ cũng bởi thế mà trở nên sâu sắc, ám ảnh hơn, như nhiều lớp sóng vỗ dồn dập mãi không dứt.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status