Soạn bài – Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự

Soạn bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự trang 176 – 179 SGK ngữ văn lớp 9 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

Hướng dẫn soạn bài – Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự

I. Tìm hiểu yếu tố đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự

Giải câu hỏi – Tìm hiểu yếu tố đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự (Trang 176, 177 SGK ngữ văn 9 tập 1)

1. Đọc đoạn trích sau:

Có người hỏi:

– Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…

– Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!

Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:

– Hà, nắng gớm, về nào…

Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:

– Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đưa một nhát!

Ông Hai cúi gầm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.

Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm sụi với nhau.

Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:

– Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.

(Kim Lân, Làng)

2. Suy nghĩ và trả lời câu hỏi:

a) Trong ba câu đầu đoạn trích, ai nói với ai? Tham gia câu chuyện có ít nhất mấy người? Dấu hiệu nào cho ta thấy đó là một cuộc trò chuyện trao đổi qua lại?

b) Câu “- Hà, nắng gớm, về nào…” ông Hai nói với ai? Đây có phải là một câu đối thoại không? Vì sao? Trong đoạn trích còn có câu nào kiểu này không? Hãy dẫn ra các câu đó.

c) Những câu như: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuồi đầu…” là những câu ai hỏi ai? Tại sao trước những câu này không có gạch đầu dòng như những câu đã nêu ở điểm (a) và (b)?

d) Các hình thức diễn đạt trên có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện diễn biến của câu chuyện và thái độ của những người tản cư trong buổi trưa ông Hai gặp họ? Đặc biệt chúng đã giúp nhà văn thể hiện thành công những diễn biến tâm lí của nhân vật ông Hai như thế nào?

Trả lời:

1. Học sinh đọc đoạn trích trong SGK

2. Trả lời câu hỏi:

a) Trong ba câu đầu của đoạn trích có hai người tản cư đang nói chuyện với nhau.

Dấu hiệu nhận biết đây là một cuộc trò chuyện qua lại:

+ Có hai lượt lời qua lại.

+ Nội dung : Hướng tới người tiếp chuyện.

+ Hình thức : có hai gạch đầu dòng đứng đầu hai lượt lời qua lại.

b) Câu Hà, nắng gớm, về nào… của ông Hai không phải là đối thoại, vì chỉ có một lượt lời, không tham gia vào câu chuyện.

Câu độc thoại:

Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! … mỗi đứa một nhát!

+ Chúng bay ăn miếng cơm hay … để nhục nhã thế này!

c) Đó là những câu ông Hai tự nói với chính bản thân mình. Trước những câu này không có gạch đầu dòng như những câu đã nêu vì đây là lời độc thoại nội tâm.

d) Các hình thức đối thoại tạo không khí như cuộc sống thật, thể hiện thái độ căm giận của những người tản cư với dân làng chợ Dầu theo giặc.

→ Giúp nhà văn khắc họa sâu sắc tâm trạng đau đớn, dằn vặt của ôn Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

II. Luyện tập

Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 178 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Phân tích tác dụng của hình thức đối thoại trong đoạn trích sau đây:

Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày.

– Này, thầy nó ạ.

Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường không nói gì.

– Thầy nó ngủ rồi a?

– Gì?

Ông lão khẽ nhúc nhích.

– Tôi thấy người ta đồn…

Ông lão gắt lên:

– Biết rồi!

Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt.

(Kim Lân, Làng)

Trả lời:

– Có ba lượt lời trao nhưng chỉ có hai lượt lời đáp.

– Lời thoại đầu của bà Hai, ông Hai không đáp.

– Câu hỏi thứ hai của bà được ông Hai khẽ nhúc nhích đáp lại bằng cách hỏi lại “Gì?”

– Lần ba ông cũng chỉ đáp lời bà bằng một câu cụt lủn “Biết rồi”.

=> Cuộc đối thoại này giúp người đọc nhận ra tâm trạng buồn bã, đau khổ, thất vọng của ông Hai.

Giải câu 2 – Luyện tập (Trang 179 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Viết một đoạn văn kể chuyện theo đề tài tự chọn, trong đó sử dụng cả hình thức đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm.

Trả lời:

Tôi vừa phải nằm viện một tuần vì bị ốm. Hôm nay là ngày tôi được ra viện. Trên đường về nhà, xen với nỗi vui mừng là nỗi lo. Lo vì không biết phải xoay sở sao để bù đắp bài vở trong những ngày qua. Tôi vừa bước vào nhà thì bé Hoa, em tôi, nhảy cẫng ra và bi bô :

– Anh Hưng ơi! Có chị nào nho nhỏ, chị nói với bố là bạn của anh. Ngày nào chị ấy cũng đến lấy vở về chép bài cho anh. Chị ấy còn cho em kẹo nữa cơ đấy!

– Ừ.

Rồi không kịp nhìn những viên kẹo trên tay em, tôi lao ngay vào phòng học. Tay tôi run run giở vội những tờ giấy trắng. Không lẽ lại là cái Hà? Có phải là Hà không nhỉ? Thôi đúng Hà rồi. Tôi lặng đi. Chính Hà đã âm thầm giúp tôi trong những ngày qua. Vậy mà đã có lúc tôi nghĩ xấu về Hà. Lúc này tự dưng trong lòng tôi dâng lên một niềm cảm xúc khó tả. Không thể kìm nén nổi lòng mình, tôi thốt lên:

– Hà ơi! Cảm ơn bạn nhé!

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự

I. TÌM HIỂU YẾU TỐ ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

1. Đọc đoạn trích sau:

Có người hỏi:

– Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…

– Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!

Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:

– Hà, nắng gớm, về nào…

Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:

– Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đưa một nhát!

Ông Hai cúi gầm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.

Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm sụi với nhau.

Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:

– Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.

(Kim Lân, Làng)

2. Suy nghĩ và trả lời câu hỏi:

a) Trong ba câu đầu đoạn trích, ai nói với ai? Tham gia câu chuyện có ít nhất mấy người? Dấu hiệu nào cho ta thấy đó là một cuộc trò chuyện trao đổi qua lại?

b) Câu “- Hà, nắng gớm, về nào…” ông Hai nói với ai? Đây có phải là một câu đối thoại không? Vì sao? Trong đoạn trích còn có câu nào kiểu này không? Hãy dẫn ra các câu đó.

c) Những câu như: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuồi đầu…” là những câu ai hỏi ai? Tại sao trước những câu này không có gạch đầu dòng như những câu đã nêu ở điểm (a) và (b)?

d) Các hình thức diễn đạt trên có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện diễn biến của câu chuyện và thái độ của những người tản cư trong buổi trưa ông Hai gặp họ? Đặc biệt chúng đã giúp nhà văn thể hiện thành công những diễn biến tâm lí của nhân vật ông Hai như thế nào?

Trả lời:

1. Đọc đoạn trích trong SGK

2. Trả lời câu hỏi:

a) Trong ba cầu đầu của đoạn trích có hai người tản cư đang nói chuyện với nhau.

Dấu hiệu nhận biết đây là một cuộc trò chuyện qua lại.

– Có hai lượt lời qua lại.

– Nội dung: Hướng tới người tiếp chuyện.

– Hình thức: có hai gạch đầu dòng đứng đầu hai lượt lời qua lại.

b) Câu “Hà, nắng gớm, về nào…” của ông Hai không phải là đối thoại, vì: chỉ có một lượt lời, không tham gia vào câu chuyện.

Câu nói của người đàn bà tản cư: “cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! … mỗi đứa một nhát!” cũng không hướng tới người đối thoại nào, không có ai đáp lại lượt lời này. Đây là lời độc thoại.

Trên văn bản, khi lời độc thoại vang lên thành tiếng thì nó được đánh dấu bằng dấu gạch đầu dòng. Có thể thấy đặc điểm này qua câu độc thoại khác: “- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!”.

c) Câu “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu …” giống với các câu độc thoại trên trừ hai điểm: không vang lên thành tiếng và không được đánh dấu bằng dấu gạch đầu dòng. Đây là lời độc thoại nội tâm.

d) Các hình thức đối thoại tạo cho câu chuyện có không khí như cuộc sống thật, thể hiện thái độ căm giận của những người tản cư với dân làng chợ Dầu theo giặc, tạo tình huống, đi sâu vào nội tâm nhân vật.

Các hình thức độc thoại và đối thoại nội tâm giúp nhà văn khắc họa sâu sắc tâm trạng đau đớn, dằn vặt của ôn Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

II. Soạn phần Luyện tập bài Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự (trang 178, 179 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Bài 1. Phân tích tác dụng của hình thức đối thoại trong đoạn trích sau đây:

Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày.

– Này, thầy nó ạ.

Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường không nói gì.

– Thầy nó ngủ rồi a?

– Gì?

Ông lão khẽ nhúc nhích.

– Tôi thấy người ta đồn…

Ông lão gắt lên:

– Biết rồi!

Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt.

(Kim Lân, Làng)

Trả lời:

– Cuộc đối thoại diễn ra không bình thường giữa hai vợ chồng ông Hai.

– Có ba lượt lời trao nhưng chỉ có hai lượt lời đáp. Lời thoại đầu của bà Hai, ông Hai không đáp: câu hỏi hai của bà được ông Hai khẽ nhúc nhích đáp lại bằng cách hỏi lại “Gì?” Lần ba ông cũng chỉ đáp lời bà bằng một câu cụt lủn “Biết rồi”.

– Tác dụng:

+ Thể hiển sự miễn cưỡng, bất đắc dĩ của ông hau khi phải trả lời bà hai.

+ Tâm trạng chán chường, buồn bã của ông Hai trong đêm sau khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

Bài 2. Viết một đoạn văn kể chuyện theo đề tài tự chọn, trong đó sử dụng cả hình thức đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm.

Trả lời:

Chiều hôm ấy đi học về, lòng tôi man mác buồn vì một người bạn mới chuyển đi. Về nhà tôi chẳng thiết ăn uống, cứ thế nằm vật ra giường. Mẹ gọi xuống ăn cơm, tôi cũng chỉ nói vọng xuống nhà:

– Con hơn mệt nên không muốn ăn. Bố mẹ cứ ăn trước ạ.

Tôi cứ thế vùi mình vào trong chăn và trách Hoa, sao lại đi mà chẳng báo trước. Cậu thật vô tâm, thật ích kỉ, giá nói trước với tớ, tớ đã không buồn đến mức này. Nghĩ đến đó tôi lại khóc nức nở, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Sáng hôm sau, ngủ dậy tôi bỗng thấy một lá thư đặt ngay bên cạnh mình, tôi nhìn nét chữ và nhận ra ngay:

– Trời ơi, là thư của Hoa!

Từng dòng chữ Hoa viết khiến cho tôi hiểu hơn quyết định chuyển trường của bạn và cả lí do bạn không nói với tôi. Tôi không còn trách Hoa nữa. Bạn ấy mãi mãi là người mà tôi yêu quý.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status