Soạn bài Vội vàng (Xuân Diệu) trang 21 – 23 SGK ngữ văn lớp 11 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Vội vàng (Xuân Diệu), sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
VỘI VÀNG
TIỂU DẪN
Xuân Diệu (1916 – 1985) còn có bút danh là Trảo Nha, tên khai sinh là Xuân Diệu. Ông thân sinh Xuân Diệu là một nhà nho, quê ở làng Trảo Nha (nay là xã Đại Lộc), Huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh ; mẹ thi sĩ quê ở Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Xuân Diệu lớn lên ở Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự lực văn đoàn. Xuân Diệu tham gia Mặt trận Việt Minh từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông hăng say hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Cả cuộc đời ông gắn bó với nền văn học dân tộc. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III, Năm 1984, Xuân Diệu được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức.
Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Từ sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và rất giàu tính thời sự. Ông cổ vũ và hăng hái thể nghiệm khuynh hướng tăng cường chất hiện thực trong thơ.
Xuân Diệu là một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp ta lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nề văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nhà văn hóa lớn. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Xuân Diệu để lại một sự nghiệp văn học lớn, tiêu biểu là các tập thơ: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962), Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982) ; các tập văn xuôi : Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945); các tập tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học : Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, hai tập (1981),(1982), Công việc làm thơ (1984)…
Vội vàng được in trong tập Thơ thơ, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
VĂN BẢN
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng . Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất;
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chi phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Theo Thơ thơ,
NXB Đời nay, Hà Nội, 1938)
Hướng dẫn soạn bài – Vội vàng (Xuân Diệu)
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– Xuân Diệu (1916 – 1985) quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
– Ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.
– Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. Ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996).
– Tác phẩm tiêu biểu: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960)…Ngoài ra ông còn viết văn xuôi và tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học.
2. Tác phẩm
– Xuất sứ: in trong tập Thơ thơ.
– Là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
II. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Vội vàng (Xuân Diệu)
Giải câu 1 (Trang 23 SGK ngữ văn 11 tập 2)
Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.
Trả lời:
Bài thơ có thể chia làm 3 đoạn:
– Đoạn 1 (13 câu đầu): tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.
– Đoạn 2 (câu 14 – 29): băn khoăn trước giới hạn của cuộc đời.
– Đoạn 3 (đoạn còn lại): hối hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống.
Giải câu 2 (Trang 23 SGK ngữ văn 11 tập 2)
Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian?
Trả lời:
Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu được nói đến trong 11 câu thơ (câu 14 – 24) mang ý vị triết lí nhân sinh sâu sắc. Cảm nhận về thời gian của thi nhân ở đây gắn liền với mùa xuân và tuổi trẻ của một con người yêu cuộc sống thiết tha, say đắm, nên mang nét riêng của Xuân Diệu rất rõ.
a) Thời gian và mùa xuân
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân đã già,
Xuân Diệu viết bài thơ này khi mới ngoài hai mươi tuổi, nghĩa là còn rất trẻ. Người trai trẻ ấy nghĩ về mùa xuân như vậy, mới biết sức tàn phá của thời gian như thế nào, và thi nhân “sợ” thời gian trôi nhanh ra sao! Ở cái tuổi ấy, có lẽ ít người nghĩ thế, và nhất là viết như thế để giãi bày lòng mình trong thơ. Hai câu trên là đối lập (đương tới / đương qua, còn non / sẽ già) để đi đến một kết luận khẳng định về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tác giả (con người):
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Mùa xuân trôi đi thì cuộc đời con người cũng chấm hết. Cảm thức về sự tàn phá của thời gian thật mạnh và sâu, được nâng lên như một triết lí nhân sinh của Xuân Diệu. Một con người bình thường không thể nghĩ về thời gian, không gian “sợ” thời gian trôi nhanh đến mức như thế. Hẳn là trong ông có chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, hay chính vì ông quá yêu cuộc sống nồng nhiệt và say đắm mà “sợ” thời gian cướp mất mùa xuân của mình.
Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu ở đây, thực ra, suy cho cùng, cũng chính là hệ quả tất yếu phải có của lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông.
b) Thời gian và tuổi trẻ
Thời gian cướp đi mùa xuân cũng có nghĩa là cướp mất tuổi trẻ của nhà thơ. Đây chính là nỗi xót đau và lo lắng nhất của Xuân Diệu. Bởi chính ông là con người trân trọng tuổi trẻ nhất và lo sợ thời gian trôi nhanh thì tuổi trẻ sẽ không còn nữa. Điều đó được ông bộc lộ thật chân thành, tha thiết:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Làm sao cuộc đời con người lại có hai lần “tuổi trẻ”? Và khi thời gian đã trôi nhanh thì liệu tuổi trẻ có còn? Như vậy, “xuân vẫn tuần hoàn” thì cuộc sống còn có ý nghĩa gì khi tuổi trẻ đã hết? Với Xuân Diệu, cái quý nhất của đời người là tuổi trẻ, tuổi trẻ là đẹp nhất, cuộc sống thời tuổi trẻ là hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Và điều ông lo sợ nhất là mất đi cái thời quý giá ấy của cuộc sống con người. Nếu không còn tuổi trẻ thì cuộc sống con người cũng chẳng còn ý nghĩa:
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt …
Qua cảm nhận về thời gian – cũng là qua nỗi băn khoăn của Xuân Diệu trước cuộc đời, ta thấy hiện lên cái đẹp nhất, hấp dẫn nhất trên cõi đời mà nhà thơ khao khát. Đó là tình yêu mùa xuân, yêu tuổi trẻ, yêu cuộc đời tha thiết như muốn sống mãi trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.
Giải câu 3 (Trang 23 SGK ngữ văn 11 tập 2)
Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
Trả lời:
Chính vì yêu tha thiết cuộc sống đời thường quanh mình, Xuân Diệu đã phát hiện ra trong cuộc sống đó những nét đẹp thật tinh tế,đáng yêu, giàu chất thơ như đã phân tích trên đây.
– Xuân Diệu yêu tuổi trẻ và biết quý tuổi trẻ của mình bởi đây là khoảng thời gian đẹp và đáng sống nhất, có nhiều hạnh phúc nhất của cuộc đời một con người (xem phân tích câu 2).
– Xuân Diệu quan niệm hạnh phúc không ở đâu xa (hoặc ở một cõi khác) mà đó chính là hạnh phúc ở quanh ta, là sự sống quen thuộc của trần thế. Hạnh phúc khi được cảm nhận một bức tranh thiên nhiên đẹp của hoa lá đồng nội, của ong bướm, chim chóc; được sống trong một “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”… Vì vậy, phải biết giữ lấy hạnh phúc, giữ lại những vẻ đẹp của cuộc sống cho mình bằng những ý tưởng thật táo bạo:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Và chính vì thế, nhà thơ đã có một cách sống vội vàng để tận hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ, của mùa xuân như nhan đề bài thơ mà ông đã bày tỏ nỗi lòng.
Giải câu 4 (Trang 23 SGK ngữ văn 11 tập 2)
Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
Trả lời:
Đoạn cuối bài thơ:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
…
Hởi Xuân Hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Xuân Diệu tả cảnh sắc mùa xuân về với thời non tươi của nó để tận hưởng. Hàng loạt hình ảnh tiếp tục làm nổi bật vẻ quyến rũ của sự sống đầy sắc hương nhưng không phải để tả mà chủ yếu để diễn đạt sự cuồng nhiệt, vội vàng tận hưởng của tác giả.
– Hàng loạt động từ tăng dần mức độ sự vồ vập, đắm say: ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.
– Thủ pháp điệp được sử dụng đa dạng: điệp cú pháp; điệp từ, ngữ; điệp cảm xúc theo lối tăng tiến (Ta muốn ôm, Ta muốn riết … Ta muốn cắn), trạng thái tăng tiến (cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê …).
=> Nét độc đáo về nghệ thuật của đoạn thơ đó là những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng theo chiều tăng tiến đã diễn tả rất thành công khao khát mãnh liệt của tác giả.
Soạn phần luyện tập bài Vội vàng (Xuân Diệu)
Giải câu hỏi – Luyện tập (Trang 23 SGK ngữ văn 11 tập 2)
Trong Nhà văn hiện đại, nhà phê bình, nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan đã viết : “Với những nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân, dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía.”
Quan phân tích bài thơ Vội vàng, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Trả lời:
– Câu nói của Vũ Ngọc Phan là một nhận định chung, mang tính khái quát về Xuân Diệu và thơ Xuân Diệu. Nhận định đó có hai ý:
+ Thơ Xuân Diệu có hai nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân.
+ Dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía.
– Cần vận dụng câu nói đó vào trường hợp bài thơ Vội vàng của ông, có nghĩa là phân tích bài thơ để làm sáng tỏ nhận định của Vũ Ngọc Phan. Cách vận dụng như sau:
+ Trong bài Vội vàng, ý “yêu đương” chưa rõ, cần khai thác cảm hứng “tuổi xuân” (tức tuổi trẻ) để làm bài.
+ Chứng minh rằng, với cảm hứng “tuổi xuân” lúc nào Xuân Diệu cũng là thanh niên với giọng yêu đời thắm thiết. Cụ thể là:
Lúc vui: đoạn 1 và đoạn 3 đều ru thanh niên bằng giọng yêu đời thắm thiết (chứng minh qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống con người; qua sự cuồng nhiệt, hối hả, vội vàng của nhà thơ đến với cuộc sống để “ôm” cuộc sống ấy vào lòng mà tận hưởng).
Lúc buồn: đoạn 2: Ngay cả khi lo sợ thời gian trôi nhanh cướp mất tuổi xuân của mình, nhà thơ băn khoăn lo lắng, nhưng trong cái băn khoăn đó vẫn bộc lộ niềm yêu đời, yêu cuộc sống của mình bằng những câu thơ tha thiết với tuổi trẻ và mùa xuân như muốn níu kéo tuổi xuân ở mãi với mình.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Vội vàng (Xuân Diệu)
Câu 1. Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.
Trả lời:
Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:
– Đoạn 1 (13 câu đầu): Bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.
– Đoạn 2 (từ câu 14 đến câu 29): Nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian.
– Đoạn 3 (còn lại): Lời giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời, vũ trụ.
Câu 2. Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian?
Trả lời:
Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu là thời gian tuyến tính, một đi không bao giờ trở lại. Nếu các nhà thơ trung đại, quan niệm thời gian là tuần hoàn, là vĩnh cửu thì với Xuân Diệu mỗi phút giây trôi qua là mất đi vĩnh viễn:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non sẽ là xuân sẽ già
Xuân Diệu lấy tuổi trẻ của mỗi người làm thước đo của thời gian. Theo nhà thơ, thời gian vũ trụ tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì trôi qua rất nhanh, không bao giờ trở lại:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Nhìn thấy sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian, Xuân Diệu còn nhận thấy mỗi phút giây trôi qua là sự mất mát, chia lìa:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian do ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời, nâng niu, trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng của tuổi trẻ.
-> Tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Câu 3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
Trả lời:
Hình ảnh, thiên nhiên và sự sống trong bài thơ được Xuân Diệu gợi lên vừa gần gũi, thân quen, vừa quyến rũ, tình tứ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và thổi vào đó một tình yêu rạo rực, đắm say:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui thầm gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Thiên nhiên qua con mắt của Xuân Diệu đều nhuốm màu tình tứ, tràn ngập xuân tình. Thi sĩ đã lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, cho thiên nhiên, quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của người thiếu nữ: “ Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”; “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”; Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.
-> Đây là một cách nhìn mới của Xuân Diệu, đồng thời cũng thể hiện quan niệm mới của nhà thơ về cuộc sống, về tuổi trẻ, về hạnh phúc: Thời gian quý giá nhất của mỗi đời người là tuổi trẻ, mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ chính là tình yêu.
Câu 4. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
Trả lời:
* Đặc điểm hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối:
– Hình ảnh quen thuộc mà tươi mới, giàu sức sống, quyến rũ.
– Cảm xúc ào ạt, tràn trề khiến Xuân Diệu sử dụng ngôn từ đặc biệt:
+ Nghệ thuật điệp cấu trúc theo lối tăng tiến: Ta muốn: ôm, riết, say, thâu, cắn.
+ Kết hợp sử dụng các động từ mạnh, danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân, tính từ chỉ xuân sắc.
– Nhịp điệu của bài thơ dồn dập, hối hả, sôi nổi, cuồng nhiệt.
* Xuân Diệu đã sử dụng các hình ảnh độc đáo, mới lạ: Mây đưa gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều, cây, cỏ rạng, mùi thơm ánh sáng, thanh sắc, thời tươi, xuân hồng… kết hợp với các động từ mạnh và tính từ chỉ xuân sắc -> thể hiện lòng yêu đời, ham sống bùng lên hối hả để tận hưởng những hương vị ngọt ngào, say đắm của cuộc sống.
Soạn phần luyện tập bài Vội vàng (Xuân Diệu) trang 23 SGK ngữ văn 11 tập 2
Câu hỏi: Trong Nhà văn hiện đại, nhà phê bình, nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan đã viết : “Với những nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân, dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía.” Quan phân tích bài thơ Vội vàng, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Trả lời:
Câu nói của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan đã tổng kết chung nhất là quan niệm sáng tác cũng như nghệ thuật của Xuân Diệu.
+ Thơ Xuân Diệu mang đến hai nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân.
+ Trong mọi hoàn cảnh tâm lí, tâm trạng thì Xuân Diệu cũng đều thể niệm một nỗi niềm yêu đời tha thiết: “Dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía”.
=> Bài thơ “Vội Vàng” cũng là một phần minh chứng cho nhận định trên.
– Triết lí sống vội vàng mà Xuân Diệu thể hiện trong Tác phẩm:
= Phải vội vàng tận hưởng hạnh phúc và niềm vui mà cuộc đời ban tặng cho con người. Thời gian cứ vô tình trôi đi mà không đợi chờ ai bao giờ cả.
= Phải vội vàng thâu nhận những vẻ đẹp của sự sống vì cái đẹp cũng giống như tuổi trẻ sẽ qua đi rất nhanh, không bao giờ trở lại.
= Phải vội vàng lên, phát huy mọi giác quan để cảm nhận cuộc đời, để nhận gấp nhiều lần sự sống.
* Quan niệm sống của Xuân Diệu
– Xuân Diệu đã thể hiện 1 quan niệm mới, tích cực, thấm đượm tinh thần nhân văn về cuộc đời, về tuổi trẻ, về hạnh phúc.
= Đối với Xuân Diệu: thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất là vì có con người. Họ được sống giữa tuổi trẻ và tình yêu.
= Thời gian quý giá nhất của mỗi đời người là tuổi trẻ, mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ là Tình yêu.
= Biết hưởng thụ chính đáng những gì mà cuộc sống dành cho mình, hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ.
– Với cảm hứng về “tuổi xuân” lúc nào Xuân Diệu cũng là thanh niên với giọng yêu đời thắm thiết.
+ Đoạn 1 và đoạn 3 đều ru thanh niên bằng giọng yêu đời thắm thiết.Xuân Diệu đã nhìn thiên nhiên qua lăng kính của Tình yêu, qua cặp mắt của tuổi trẻ -> cảnh vật đều nhuốm màu tình tứ, tràn ngập xuân tình.
+ Đoạn 2 chính là những nỗi buồn của tác giả khi mà phải đứng nhìn thời gian qua đi, tuổi xuân cũng vì thế mà trôi đi mất. Đó là sự khát khao được cống hiến cho đời, cho cuộc sống nơi tác giả.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment