Soạn bài – Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học

Soạn bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học trang 92 – 93 SGK ngữ văn lớp 11 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

Hướng dẫn soạn bài – Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học

Giải đề 1 – Viết bài làm văn số 3 (trang 92 – 93 SGK ngữ văn 11 tập 1)

So Sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bì tài sắc lại là phần hơn:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Trả lời:

1. Mở bài:

– Giới thiệu đoạn trích: nằm ở phần mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du.

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật.

– Khái quát nội dung đoạn trích.

2. Thân bài:

– Giới thiệu hai chị em: đều đẹp như “tố nga”, “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”

– Phân tích vẻ đẹp của Thúy Vân: 4 câu tả Thúy Vân.

  • Vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu.
  • Vẻ đẹp của sự hài hòa và dung hòa được với “xung quanh”.

=> Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu; tính cách thì đoan trang, thùy mị: khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm; lông mày sắc nét như mày ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang, thùy mị. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết.

– Vẻ đẹp của Kiều: 12 câu tả Kiều.

  • Thúy Kiều lại được tả là sắc sảo mặn mà” hơn hẳn Thủy Vân => Đó là nghệ thuật đòn bẩy.
  • Vẻ đẹp lộng lẫy sắc nước hương trời đến hoa phải ghen, liễu phải hờn.
  • Thúy Kiều chẳng những rất đẹp mà còn thông minh và tài hoa nữa: giỏi thơ,ca, nhạc hoạ…
  • Dự cảm về số mệnh: “bạc mệnh”.

=> Tài sắc của Thúy Kiều như báo trước một cuộc đời dữ dội với đầy gian nan, trắc trở sau này.

– Nghệ thuật: ước lệ, tượng trung, điển cổ để miêu tả, làm nổi bật vẻ đẹp của hai chị em.

3. Kết bài:

– Khẳng định lại vẻ đẹp của hai chị em.

– Trân trọng đề cao vẻ đẹp con người, vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mỹ của hai chị em Kiều => Cảm hứng nhân đạo.

Giải đề 2 – Viết bài làm văn số 3 (trang 93 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của mình.

Trả lời:

1. Mở bài:

– Giới thiệu về hai nhà thơ: là những nhà thơ lớn, cùng sống trong một thời đại (buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta, với bao điều nhố nhăng, bất công, tàn ác,…)

– Giọng thơ của hai ông có những điểm khác nhau:

  • Giọng thơ của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, thâm thuý
  • Giọng thơ Tú Xương mạnh mẽ, sâu cay.

2. Thân bài:

a) Hoàn cảnh của hai nhà thơ:

  • Nguyễn Khuyến (1835, tỉnh Hà Nam) con đường công danh rất thành đạt (Tam Nguyên Yên Đỗ).
  • Tú Xương (1870, tỉnh Nam Định), con đường công danh của Tú Xương mịt mù lận đận: tám lần thất bại (trừ một lần đậu tú tài).

b) Nỗi niềm tâm sự của hai nhà thơ:

– Hoàn cảnh xã hội: xã hội thực dân nửa phong kiến, đầy rẫy bất công, hai nhà thơ đã chứng kiến bao cảnh nhiễu nhương, chứng kiến cuộc sống cực khổ của người lao động => Tác động đến tư tưởng trong những sáng tác của hai người.

– Những nỗi niềm tâm sự chung: Yêu nước, tâm sự thời thế.

Nguyễn Khuyến qua bức tranh phong cảnh mùa thu qua bài thơ “Thu điếu” đã làm nổi bật lên vẻ đẹp thật sự của bầu trời mùa thu ở nông thôn Việt Nam đã gửi vào đó nỗi niềm tâm sự, thể hiện một tinh thần yêu nước sâu xa, yêu nước trong đau đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng mà sôi sục, quặn thắt mà quan hoài, trào lộng mà trữ tình, kín đáo mà động vang, cô đơn mà hòa nhập, lạnh lùng mà bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm.

Tú Xương luôn buồn đau trước vận nước, vận dân. Với giọng văn châm biến sâu cay, ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, thờ ơ với vận mệnh đất nước, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc … Tú Xương đã lên tiếng chất vấn họ trong bài thơ Vịnh khoa thi Hương.

  • Tình cảm bạn bè và gia đình.
  • Đau xót trước cảnh lầm than của người dân, trước những điều nhố nhăng của xã hội đương thời.
  • Tố cáo, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội.

⟹ Tâm hồn tha thiết với đời, vớ cuộc sống, với nhân dân.

⟹ Căm ghét xã hội thực dân nửa phong kiến nhố nhăng, đầy rẫy cảnh bất công.

Ca ngợi hình ảnh người phụ nữ: Nguyễn Khuyến có bài “Mẹ Mốc” (khắc họa hình tượng cảm động của một người đàn bà danh tiết có thật lúc bấy giờ: mẹ Mốc. “Mẹ Mốc” nhan sắc tuyệt trần đã giả vờ điên dại để dành trọn tâm tư cho chồng con đang ở xa) còn Tú Xương có bài “Thương Vợ” (Bà Tú từng chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chông)

b) Sự khác nhau giữa giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương.

– Nguyễn Khuyến – nhà nho chuẩn mực.

  • Giọng thơ trữ tình nhẹ nhàng, ý nhị, tinh tế, mộc mạc, khi thì đằm thắm, khi thì đau xót (Thu Điếu)
  • Giọng điệu tự trào thâm trầm mà kín đáo, hết sức thâm thúy (Tự Trào)

– Tú Xương. nhà nho thị dân.

  • Tiếng cười trào phúng của Tú Xương là tiếng cười suồng sã, chua cay, dữ dội. (Vịnh khoa thi Hương)
  • Mảng thơ trữ tình: Tiêu biểu là bài Thương vợ. Nhà thơ viết về người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó của mình với tất cả lòng yêu thương, trân trọng, cảm phục. Bài thơ khắc hoạ thành công hình ảnh người vợ, người mẹ giàu đức hi sinh.

c) Nguyên nhân có sự khác nhau:

– Nguyễn Khuyến tài cao học rộng, thuận lợi hơn trong con đường thi cử. Ông đỗ đạt cao. Thi Hương, thi Hội, thi Đình, ông đều đỗ đầu. Ông là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có lòng yêu nước, thương dân.

– Tú Xương học giỏi nhưng lại long đong, lận đận trong con đường thi cử. Đi thi nhiều lần nhưng ông cũng chỉ đậu tú tài. Cuộc sống gia đình khó khăn. Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai bà Tú. Ông chẳng giúp được gì cho vợ con. Vì lẽ đó, giọng thơ của ông vừa chua chát, vừa mạnh mẽ, phẫn uất.

3. Kết bài:

– Khẳng định lại nhứng đóng góp to lớn mà hai tác giả mang đến cho nền văn học Việt Nam.

– Tấm lòng chung của hai nhà thơ.

Giải đề 3 – Viết bài làm văn số 3 (trang 93 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

Trả lời:

1. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

– Khái quát nội dung.

– Đưa ra vấn đế nghị luận: Vẻ đẹp của hình tượng  người nghĩa sĩ nông dân.

2. Thân bài:

Trình bày các ý chính:

– Nguồn gốc:

  • Cui cút.
  • Toan lo.
  • Việc cuốc, cày, bừa – quen làm.
  • Biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
  • Xa lạ với việc nhà binh.

=> Người nông dân nghèo khổ, kiền lành, chất phác.

– Những chuyển biến về tư tưởng, tình cảm với người nông dân:

  • Tình cảm: Có lòng yêu nước (trông tin…), căm thù giặc sâu sắc (… ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ, muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ, trắng lốp, đen sì).
  • Nhận thức: Có ý thức trách nhiệm với Tổ quốc trong lúc lâm nguy, tự nguyện xung quân chiến đấu, quyết tâm đuổi giặc. (Một mối xa thư đồ sộ … treo dê bán chó)
  • Hành động tự nguyện và ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc (Nào đợi ai đòi bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ…) Đất nước có ngoại xâm – chờ đợi triều đình – không có hồi âm.

– Chiến đấu dũng cảm: đốt xong, chém rớt, đạp rào, xô cửa, đâm ngang, chém ngược…  => khí thế tấn công như vũ bão, làm tăng vẻ đẹp tráng ca, hiên ngang, bất khuất, kiên cường, đẹp trong tư thế ngẩng cao đầu, tay cầm vũ khí

– Vẻ đẹp hào hùng của người nông dân nghĩa sĩ:

  • Mộc mạc giản dị (manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi)
  • Rất mực nghĩa khí và với tinh thần xả thân cứu nước hết sức quả cảm (Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố. […] Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bòn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.)

– Niềm tiếc thương, đau xót cùng thái độ cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ

3. Kết bài:

– Họ đã thành những con người mang hình ảnh bất tử hóa=> bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về người nghĩa sĩ nông dân hiên ngang, dũng cảm trong tác phẳm của mình.

– Tinh thần chiến đấu của người nghĩa binh nông dân là tấm lòng yêu nước nghìn đời đáng ghi nhớ và học tập.

Giải đề 4 – Viết bài làm văn số 3 (trang 93 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Những cảm nhận sâu sắc của anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Trả lời:

Những luận điểm chính:

1. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu:

– Sinh tại quê mẹ: Gia Định.

– Xuất thân trong 1 nhà Nho.

– 1843, đỗ tú tài.

– 1846, ra Huế học – mẹ mất – bỏ thi về chịu tang – bị mù.

– Về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc, làm thơ -> người có nghị lực phi thường.

– Pháp đánh vào Gia Định, ông về Ba Tri và giữ trọng tấm lòng thủy chung, son sắt với nước, với dân cho đến hơi thở cuối cùng.

2. Nội dung thơ văn

* Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa:

– Nhân: lòng yêu thương con người, sẵn sàng cưu mang con người trong cơn hoạn nạn.

– Nghĩa: những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội.

– Mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho nhưng đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc.

– Những nhân vật lí tưởng: con người sống nhân hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế.

* Lòng yêu nước, thương dân:

– Ghi lại chân thực thời kì đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù quân giặc, nhiệt liệt biểu dương những người anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì Tổ Quốc.

– Tố cáo tội ác của kẻ thù, lên án những kẻ bán nước, cầu vinh.

– Ca ngợi những sĩ phu yêu nước.

– Giữ niềm tin vào ngày mai.

– Bất khuất trước kẻ thù.

=> Khích lệ lòng yêu nước và ý chí cứu nước của nhân dân ta.

* Nghệ thuật thơ văn:

– Bút pháp trữ tình, xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành.

– Đậm đà sắc thái Nam Bộ: lời ăn tiếng nói mộc mạc, giản dị, lối thơ thiên về kể.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học

Đề 1. So Sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bì tài sắc lại là phần hơn:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Trả lời:

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận.

(Đoan trích được trích từ kiệt tác của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Cả đoạn trích đã gợi tả vẻ đẹp của hai trang tuyệt thế giai nhân, hai cô con gái nhà họ Vương: Thúy Kiều và Thúy Vân. Với tài năng của mình, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét vẻ đẹp của từng người bằng bút pháp ước lệ tượng trương)

2. Thân bài:

a) Phân tích vẻ đẹp Thúy Vân:

  • Thúy Vân được tác giả đặc tả chủ yếu về nhan sắc, là một con người phúc hậu, đoan trang. Nàng có vẻ đẹp: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”. Nụ cười của Vân tươi tắn như hoa, tiếng nói trong như ngọc, tóc mềm, bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Làn da trắng mịn khiến cho tuyết phải nhường.
  • Thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài tình của Nguyễn Du đã làm cho bức chân dung nhân vật cứ hiện dần ra. Từ khuôn mặt, nét ngài, tiếng cười giọng nói, mái tóc, làn da đều được tác giả so sánh cùng thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết… Có thể thấy, vè đẹp của Vân là vẻ đẹp cao sang, quý phái, vẻ đẹp gần gũi với thiên nhiên.
  • Qua đó, nhà thơ ngầm dự báo cuộc sống của Thúy Vân sẽ bình lặng, êm ả.

b) Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều:

  • Vẻ đẹp của Thúy Kiều được đặc tả trong 12 câu, đó là dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du.
  • Nếu vẻ đẹp của Vân là hoàn hảo thì vẻ đẹp của Kiều còn vượt lên trên cái hoàn hảo ấy: Vẻ đẹp của Kiều vượt lên trên vẻ đẹp của Thúy Vân cả về mặt trí tuệ (sắc sảo) và tâm hồn (mặn mà).
  • Về nhan sắc: Nhà thơ đặc tả đôi mắt của nàng trong như làn nước mùa thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi mùa xuân. Vẻ đẹp của môi hồng, má thắm khiến cho “hoa ghen”, nước da trắng xinh làm cho liễu phải “hờn”. Kiều mang vẻ đẹp của một trang tuyệt thế giai nhân khó có ai sáng bằng. Nghệ thuật so sánh, ẩn dụ kết hợp với nghệ thuật tiểu đối khiến cho tính chất đối kị giữa vẻ đẹp của Kiều với thiên nhiên tăng gấp bội.
  • Về tài năng: Kiều không chỉ có sắc mà còn là một cô gái thông minh, tài hoa. Nàng có tài thơ, họa, đàn… tài nào cũng siêu tuyệt.
  • Các từ ngữ: ghen, hờn, đòi một, họa hai, vốn sẵn, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân.. tạo nên hệ thống ngôn ngữ vừa tả tài sắc vừa hé lộ, dự báo số phận bạc mệnh của Kiều.

3. Kết bài: Đánh giá, nhận xét về tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều

Đề 2. Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của mình.

Trả lời:

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

  • Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ cùng sống trong một thời đại (buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta, với bao điều nhố nhăng, bất công, tàn ác, …
  • Cả hai ông đều sáng tác và đều có những bài thơ nổi tiếng. Tuy vậy, giọng thơ của hai ông lại có những điểm khác nhau. Giọng thơ của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, thâm thuý, còn giọng thơ Tú Xương mạnh mẽ, cay độc.

2. Thân bài:

a) Sự giống nhau của hai ông:

– Hai ông đều sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến, đầy rẫy bất công, hai ông đã chứng kiến bao cảnh nhiễu nhương, chứng kiến cuộc sống cực khổ của người lao động.

– Hai ông đều có nỗi niềm tâm sự giống nhau:

  • Tâm sự yêu nước, tâm sự thời thế.
  • Tình cảm bạn bè và gia đình.
  • Đau xót trước cảnh lầm than của người dân, trước những điều nhố nhăng của xã hội đương thời.
  • Tố cáo, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội.

b) Sự khác nhau giữa giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương:

– Nguyễn Khuyến:

  • Thơ trào phúng: tiếng cười hóm hỉnh, nhẹ nhàng, thâm trầm đầy ngụ ý.
  • Thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến: giọng thơ khi thì đằm thắm, khi thì đau xót.

– Tú Xương:

  • Tiếng cười trào phúng của Tú Xương là tiếng cười suồng sã, chua cay, dữ dội.
  • Mảng thơ trữ tình: Tiêu biểu là bài Thương vợ. Nhà thơ viết về người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó của mình với tất cả lòng yêu thương, trân trọng, cảm phục. Bài thơ khắc hoạ thành công hình ảnh người vợ, người mẹ giàu đức hi sinh.

c) Nguyên nhân có sự khác nhau:

  • Nguyễn Khuyến tài cao học rộng, thuận lợi hơn trong con đường thi cử. Ông đỗ đạt cao. Thi Hương, thi Hội, thi Đình, ông đều đỗ đầu. Ông là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có lòng yêu nước, thương dân.
  • Tú Xương học giỏi nhưng lại long đong, lận đận trong con đường thi cử. Đi thi nhiều lần nhưng ông cũng chỉ đậu tú tài. Cuộc sống gia đình khó khăn. Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai bà Tú. Ông chẳng giúp được gì cho vợ con. Vì lẽ đó, giọng thơ của ông vừa chua chát, vừa mạnh mẽ, phẫn uất.

3. Kết bài:

  • Nhận xét, đánh giá về giá trị thơ văn và nhân cách của hai nhà thơ lớn thuộc giai đoạn văn học trung đại Việt Nam.
  • Mở rộng vấn đề.

Đề 3. Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

Trả lời:

1. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu bởi nó biểu hiện cao độ nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương và khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể nói bài Văn tế là khúc ca bi tráng ca ngợi người nghĩa sĩ nông dân đã xả thân vì sự tồn vong của đất nước.)

2. Thân bài:

a) Hoàn cảnh xuất thân và khi chưa có giặc tới xâm lược:

  • Là những người lao động chất phác, giản dị, sống cuộc đời lam lũ, cơ cực (Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó).
  • Họ chỉ quen với việc đồng áng, hoàn toàn xa lạ với binh đao. (Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.)

b) Những chuyển biến khi giặc Pháp tới xâm lược:

  • Tình cảm: Có lòng yêu nước (trông tin …), căm thù giặc sâu sắc (muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ).
  • Nhận thức: Có ý thức trách nhiệm với Tổ quốc trong lúc lâm nguy (Một mối xa thư đồ sộ … treo dê bán chó)
  • Hành động tự nguyện và ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc (Nào đợi ai đòi bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ …)

c) Vẻ đẹp hào hùng của người nông dân nghĩa sĩ:

  • Mộc mạc giản dị (manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi)
  • Rất mực nghĩa khí và với tinh thần xả thân cứu nước hết sức quả cảm (Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố. […] Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bòn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.)

3. Kết bài: Khẳng định, đánh giá và mở rộng vấn đề.

(Nguyền Đình Chiểu đã bất tử hóa hình tượng người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Ông đã xây dựng được bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về người nghĩa sĩ nông dân hiên ngang, dũng cảm trong tác phẳm của mình. Bài văn tế như một cái mốc, một minh chứng về tấm lòng yêu nước, về phẩm chất của người nông dân lao động)

Đề 4. Những cảm nhận sâu sắc của anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Trả lời:

1. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu cũng đã để lại cho chúng ta không ít những cảm xúc chân thành, xúc động. Nhưng điều mà chúng ta cảm nhận sâu sắc nhất qua sự nghiệp thơ văn của ông chính là sự thống nhất cao độ, tuyệt đẹp giữa lí tưởng sống và sự nghiệp thơ văn. Ở Nguyễn Đình Chiểu, văn với người là một. Thơ văn ông thể hiện rõ chân dung tinh thần của ông. Bởi vậy, đọc thơ văn của nhà thơ mù xứ Đồng Nai ta thấy rõ y chí kiên cường của người chiến sĩ, nhà thơ đầy khí tiết đất Gia Định, ….)

2. Thân bài

a) Cuộc đời:

– Suốt cuộc đời mình, dù gặp nhiều bất hạnh trắc trở trên đường đời, song con người ấy vẫn vượt lên trên mọi hoàn cảnh, vẫn giữ trọn được đạo lí, cốt cách cao đẹp; đứng về phía chân lí, đấu tranh chống bọn bất nhân bất nghĩa.

– Trước khi Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu dùng ngòi bút để chở đạo và “đâm mấy thằng gian”. Khi Pháp xâm lược nhà thơ tiếp tục nêu cao tinh thần chiến đấu vì nghĩa bằng mấy ngòi bút và đạo đức sáng ngời của mình.

– Pháp đánh chiếm Nam Bộ, không thể trực tiếp đánh giặc bằng gươm, ông đã đánh giặc bằng mưu trí, bàn kế đánh giặc với các lãnh tụ nghĩa quân (Trương Định, Đốc binh là). Cuộc khởi nghĩa của các nghĩa quân bị dìm trong biến máu, giặc chiếm hết Nam Bộ, Nguyễn Đình CHiểu đã từ chối sự mua chuộc của kẻ thù xâm lược, kiên kiết giữ vững khí tiết. Không dừng lại ở đó nhà thơ thêm một lần nữa tiếp tục gương cao tinh thần chiến đấu, dùng ngòi bút sắc bén của mình để bênh vực cho lẽ phải, cho chính nghĩa.

b) Sự nghiệp thơ văn:

– Trước khi Pháp xâm lược, cụ Đồ Chiểu đã thể hiện rõ tư tưởng, đạo sống của mình qua các tác phẩm Lục Vân Tiên. Tác giả đã ca ngợi những con người nghĩa hiệp vì nghĩa mà xả thân đánh cướp, trừ gian như Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Hớn Minh… Tôn vinh những con người có tấm lòng chung thủy, có nghĩa, có tình như Kiều Nguyệt Nga. Mặt khác, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã lên án bọn người bất nhân bất nghĩa như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, cho con Võ Thể Loan…

– Giặc Pháp biến Nam Bộ thành mảnh đất nô lệ, đau thương nhà thơ đã thể hiện rõ khí chí của người con trung nghĩa bằng lòng căm thù giặc sâu sắc, hết lời ngợi ca những tấm gương xả thân vì dân tộc: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Chạy Giặc…

→ Dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Nguyễn Đình Chiểu vẫn một lòng vì nghĩa, luôn nêu cao tấm gương đạo đức sáng ngời. Ông xứng đáng là ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc như lời bác Phạm Văn Đồng khẳng định: “Trên trời có vì sao có ánh sáng khác thường… con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn mới thấy càng sáng” (Bài “Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc”).

3. Kết bài:

  • Khẳng định giá trị về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
  • Có thể liên tưởng, mở rộng vấn đề.

Bài văn mẫu tham khảo – Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học

Đề 1. So Sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bì tài sắc lại là phần hơn:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Bài viết tham khảo:

Chị em Thúy Kiều là đoạn trích nằm ở phần mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo xuất sắc cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn, đồng thời cũng là đỉnh cao nghệ thuật của thơ ca tiếng Việt, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật mà đoạn trích này là một ví dụ tiêu biểu.

Sau mấy câu tóm tắt về gia cảnh của vương viên ngoại, nhà thơ giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Thúy Vân:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân…

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

   Bút pháp tả người trong đoạn trích này là bút pháp ước lệ thường thấy trong thơ văn cổ điển, lấy những nét đẹp của thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của con người. Ở những nhà thơ khác, nếu theo cách tả này thì chân dung nhân vật thường chung chung, mờ nhạt. Song công thức ước lệ ấy dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo của Nguyễn Du lại biến hóa khôn lường, khiến cho nhân vật trở nên sinh động.

   Nhà thơ giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều bằng cách gọi trân trọng dành cho những người con gái đẹp: tố nga và khẳng định: Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Cả hai đều có nhan sắc chim sa cá lặn. Hình dáng thanh tú, yểu điệu (mai cốt cách), tâm hồn trong trắng như sương, như tuyết (tuyết tinh thần).

Nguyễn Du rất kĩ lưỡng trong việc lựa chọn hình ảnh và từ ngữ để miêu tả. Thúy Vân hiện lên trước mắt người đọc với vẻ đẹp đài các, kiêu sa:

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

   Gương mật Thúy Vân toát lên vẻ đẹp phúc hậu, tươi tắn, gợi sự đầy đủ, viên mãn. Nàng cười tươi như hoa nở, tiếng hói trong như tiếng ngọc rơi trên mâm vàng. Tóc nàng đen mướt đến mây cũng phải thua, da nàng trắng đến mức tuyết cũng phải nhường. Dường như Tạo hoá đã ban cho Thúy Vân rất nhiều đặc ân mà nàng vẫn không bị ai ganh ghét và đố kị. Vẻ đẹp tràn đầy sức sống ấy báo trước cuộc đời Thúy Vân sau này sẽ yên ổn, vinh hoa. Nàng sẽ được hưởng mọi điều sung sướng của một bậc mệnh phụ phu nhân.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du lại miêu tả Thúy Vân trước, Thúy Kiều sau. Chủ ý của nhà thơ là lấy vẻ đẹp của cô em làm nền cho vẻ đẹp của cô chị – nhân vật chính, vẻ đẹp của Thúy Vân trang trọng khác vời, tức là đạt tới mức cao nhất của nhan sắc mà Tạo hóa ban cho người phụ nữ; nhưng vẻ đẹp của Thúy Kiều lại đặc biệt ở chỗ là nó phá vỡ khuôn khổ thông thường từ trước tới nay.

Ngay từ câu đầu giới thiệu về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

   Thúy Vân đã đẹp khác người thường, Thúy Kiều lại hơn hẳn Vân cả tài lẫn sắc. Vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của Thúy Kiều gây ấn tượng rất mạnh, ai được chiêm ngưỡng một lần ắt chẳng thể nào quên. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du không đi vào chi tiết như tả Thúy Vân mà nhấn mạnh vào vẻ đẹp của đôi mắt – cửa sổ tâm hồn:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

   Mắt nàng long lanh như nước hồ mùa thu, lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Ẩn chứa trong đôi mắt ấy là một tâm hồn đa cảm khác thường. Nhan sắc của nàng nghiêng nước nghiêng thành, khiến hoa phải ghen vì thua thắm, liễu phải hờn vì kém xanh. Tác giả đã đem hết tài năng nghệ thuật và tình cảm mến yêu, khâm phục để tả Thúy Kiều nhưng ông cũng có ý hé lộ cho người đọc thấy dự cảm bất an về tương lai của nàng. Theo thuyết tài mệnh tương đối khá phổ biến trong dân gian thời ấy thì phàm cái gì tốt đẹp trên đời đều khó mà giữ được bền lâu. Thúy Kiều đẹp không ai sánh bằng, ắt nàng sẽ bị người đời ghen ghét và đày đọa.

Một điều đáng chú ý nữa là khi tả Thúy Vân, thi hào Nguyễn Du tuyệt nhiên không nhắc đến tài. Còn tả Thúy Kiều thì ông nhấn mạnh nàng là người tài sắc vẹn toàn:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

   Trong đời, hiếm có người con gái nào đa tài như Thúy Kiều, nhất là tài chơi hồ cầm của nàng thì không ai bì kịp. Có sắc, có tài, Thúy Kiều lại có thêm tâm hồn mẫn cảm lạ lùng. Dường như nàng linh cảm được về số phận bất hạnh của mình nên đã sáng tác cung đàn bạc mệnh mà ai nghe cũng phải não lòng:

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.

   Bốn câu thơ cuối đoạn, tác giả nhận xét chung về hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân và hoàn cảnh sống của họ:

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

   Những chi tiết trên chứng tỏ họ là con nhà nền nếp, được hưởng thụ một nền giáo dục đầy đủ và tốt đẹp; đồng thời khẳng định phẩm hạnh trong trắng, cao quý của chị em Thúy Kiều.

Đoạn trích chỉ có hai mươi bốn câu thơ nhưng đã cho chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du. ông xứng đáng là bậc thầy về sử dụng thủ pháp ước lệ để miêu tả chân dung nhân vật. Mỗi nhân vật của ông có diện mạo riêng, tính cách riêng rõ nét.

Trong khi miêu tả vẻ đẹp chị em Thúy Kiều, tác giả bày tỏ tình thương yêu, trân trọng đối với con người; kín đáo khẳng định rằng một con người tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều xứng đáng được hưởng tình yêu và hạnh phúc. Sau này, cuộc đời nàng bị đoạ đày, bất hạnh, ấy là do tội ác của các thế lực đen tối gây ra. Đọc đoạn trích, chúng ta có thiện cảm với hai chị em Thúy Kiều và cùng với tác giả, chúng ta hãy dõi theo bước chân của họ trên đường đời vạn nẻo đầy chông gai, sóng gió.

Đề 2. Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của mình.

Bài viết tham khảo:

   Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều xuất thân từ dòng dõi nho học. Do vậy giữa hai người cũng ít nhiều gặp nhau về một tư tưởng. Tuy không cùng sinh ra trong một thời kì (Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên khi Pháp chưa xâm lược còn Tú Xương sinh ra khi đất nước đang rơi vào cảnh nguy nan khốn đốn, công cuộc xâm lược và bình định của Pháp đang đi vào hồi cực thịnh). Nhưng nhìn chung hai mảnh đời đều trải qua thời kì đen tối nhất của lịch sử dân tộc.

Xã hội Việt Nam lúc ấy đã chuyển sang một xã hội mới là xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái xã hội ấy gắn với sự thay đổi trong tình hình giai cấp, sinh hoạt, trạng thái tâm lí xã hội. Đây là lúc ông làm thằng, thằng làm ông, cậu bồi, cậu bếp, thầy thông, thầy kí,… rặt một phường bất tài vô liêm sỉ nhưng sẽ làm anh làm chị, nghênh ngang vênh mặt với đời. Và đây cũng là lúc nho phong tàn tạ, sĩ khí tiêu điều, bút lông đến ngày hết được săn đón, mọi giá trị cũ đang sụp đổ trước uy thế của đồng tiền. Cái xã hội đảo điên tan tác ấy đã tác động đến nhiều nhà nho chân chính, có ý thức trước vận mệnh đất nước trong đó có Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Trước hiện thực cuộc sống ấy cả hai ông đều có những nỗi niềm giống nhau: Sự bất mãn phản kháng trước xã hội, tiếng nói tâm tình của một tấm lòng yêu nước nhưng giọng thơ lại rất khác nhau. Điều này sẽ được thấy rõ khi sớm hiểu về nội dung thơ ca của hai nhà thơ.

Cùng là sự bất mãn với xã hội, châm biếm, tố cáo những người những việc xấu xa nhưng cách thể hiện của hai nhà thơ rất khác nhau. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một nhà thơ châm biếm. Nội dung châm biếm của ông bao giờ cũng có một ý nghĩa xã hội và chính trị phong phú. Động cơ châm biếm của ông xuất phát không phải từ sự bất mãn về quyền lợi cá nhân mà là từ lòng yêu nước nồng nàn. Đối tượng đả kích của ông tập trung xung quanh những người những việc có liên quan đến việc nước mất hay việc thực dân Pháp đặt quyền thống trị trên đất nước ta. Hạng người bị Nguyễn Khuyến châm biếm nhiều hơn cả là bọn thống trị phong kiến. Ông rất khinh và ghét mọi quan lại cũ hay mới vì ông cho rằng khi chủ quyền trong nước đã mất thì làm quan là một điều hổ thẹn, một sự vi phạm không thể tha thứ được đối với đạo đức của một nhà nho chân chính. Nguyễn Khuyến đã đánh một đòn đau vào toàn bộ bọn vua quan đương thời khi chỉ ra tất cả bọn chúng chỉ là một đám hát chèo nghĩa là một đám bù nhìn của thực dân:

Vua chèo còn chẳng ra gì

Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề

   Ông đã hạ bệ những ông tiến sĩ tri thức nhân tài của chế độ phong kiến khi ví chúng với những ông tiến sĩ giấy. Tất cả chỉ là một lũ bất tài vô dụng:

Chiết thân xiêm áo sao mà nhẹ

Cái giá khoa danh thế mới hời

Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe

Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi

   Nguyễn Khuyến đã lột trần cái bản chất xấu xí giả tạo của bọn quan lại nhưng bằng một cách thể hiện một cách rất nhẹ nhàng sâu kín. Cái bản chất ấy thường được bọc bên trong những hình ảnh ẩn dụ với nhiều hình thức: khi là sự mượn lời của người vợ mắng chồng, khi là qua một đồ vật giả, khi là lời khuyên… Tất cả đều ẩn ý, sâu cay.

Khác với Nguyễn Khuyến, Tú Xương khi phản ánh hiện thực ông thường miêu tả một cách chân thật đến chua xót, đắng cay chứ không nhẹ nhàng thâm thúy. Tuy nhiên, đó không phải là “một lối chửi đổng, bất lực chứng tỏ một trạng thái đầy ghen tức, oán hờn” như có người phê phán. Ông không hoàn toàn đứng trên lập trường cá nhân, bất mãn rồi phản ánh hiện thực. Tú Xương có vướng mắc trong vấn đề thi cử, có phần bất mãn cá nhân. Điều đó chúng ta không chối cãi. Nhưng điều cần thấy trước là ở Tú Xương có phần bất mãn chung của dân tộc. Nói cho đúng là ở Tú Xương bất mãn cá nhân và bất mãn chung của dân tộc đã kết hợp thành một chỗ đứng, một tư thế cho Tú Xương nhìn hiện thực và phê phán hiện thực. Cũng là châm biếm, đả kích bọn quan lại nhưng hãy xem, quan lại trong thơ Tú Xương hiện lên như thế nào? Với một thái độ khinh ghét đến tột độ, quan lại trong mắt của Tú Xương cũng là món hàng cho nên “đứa thì mua tước, đứa mua quan”, cũng thành chuyện đắt rẻ “Tri huyện lâu nay giá rẻ mà”. Bộ mặt quan lại trong thơ Tú Xương hiện lên khá đậm nét. Tú Xương đã dựng lên trước mắt người đọc một cuốn phim thời sự đơn sơ nhưng sâu sắc về lai lịch, hành tung của bọn đó. Khi còn là sĩ tử, họ lôi thôi bệ rạc, một chút sinh khí không còn:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ

Họ tranh lộn nhau khoa bảng

   Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa Tuân khoe văn hoạt, nghị văn già Khi đỗ đạt được thì chẳng qua là lao sâu vào ô nhục:

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,

Dưới sân quan cử ngỏng đầu rồng

   Rồi lực làm quan thì sa đoạ, truỵ lạc, không còn lấy chút đạo lí tối thiểu:

Đậu lạy quan xin nọ chú hàn

   Đặc biệt họ chỉ chuyên nghề vơ vét, bòn rút của nhân dân mà một chút trách nhiệm cũng không hề nghĩ tới:

Chữ y chữ chiểu không phê đến

Ông chỉ quen phê một chữ tiền

   Dưới ngòi bút của Tú Xương, quan lại là phường tuồng, đeo râu vẽ mặt, hò hét múa may để lừa bịp thiên hạ:

Nào có ra gì cái lũ tuồng,

Cũng hò cũng hét cũng y uông

Dẫu rằng dối được đàn con trẻ,

Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn

   Mô tả bọn quan lại trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến như Tú Xương là hay lắm.

Trong xã hội thực dân nửa phong kiến, đồng tiền làm mưa làm gió thêm một bước gây đảo điên trong xã hội. Cùng là sự phản ánh mặt tiêu cực của đồng tiền nhưng ở Nguyễn Khuyến đó là một câu hỏi nghe nhẹ nhàng nhàng hàm ý sâu cay:

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ!

Đời trước làm quan cũng thế à?

   Khác hẳn với cách viết của Tú Xương, dưới ngòi bút của ông, đồng tiền có sức mạnh kì lạ. Nó được người đời âu yếm và tôn thờ. Nó bắt kẻ “tráng sĩ cũng nằm co” nếu trong túi không có nó, ngược lại nó cho phép hễ ai có nó thì tha hồ nói dơi nói chuột mà vẫn được người khen. Đúng là:

Kẻ yêu người ghét hay gì chữ

Đứa trọng thằng khinh chỉ vì tiền.

   Vì tiền mà bao nhiêu xấu xa thối nát, bao nhiêu quái gở lố lăng một ngày một diễn ra trong xã hội. Vị tiên mà có cảnh:

Chí cha chí chát khua giày dép

Đen thủi đen thui cũng lượt là.

   Vì tiền mà bọn tu hành bỏ rơi cả đức độ từ bi của Phật quay sống cái nghề cho vay nặng lãi, vì tiền mà nhiều gia đình lục đục, con khinh bố, vợ chửi chồng. Thật là nguy hiểm. Đồng tiền đã phá hoại nhân tâm, phá hoại đạo lí, phá hoại bao nhiêu tình cảm thiêng liêng của con người.

Như vậy ở cùng một đối tượng phản ánh nhưng người đọc bao giờ cũng phân biệt được đâu là thơ Nguyễn Khuyến, đâu là thơ Tú Xương chính bởi giọng điệu. Thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng nhẹ nhàng, thường dùng hình thức ẩn dụ để qua đó đả kích, phê phán đối tượng. Người đọc thấy được cái hàm ý sâu cay thâm thúy ẩn chứa đằng sau con chữ. Đọc thơ Nguyễn Khuyến lúc đầu tưởng là khen đấy, hỏi han ân cần thật đấy nhưng để rồi đến câu cuối lại là lời mỉa mai chế nhạo của nhà thơ. Tú Xương thì khác, ông không dùng ẩn dụ mà nói hẳn, đả kích trực tiếp đối tượng với tất cả những xấu xa của nó. Thơ ông như những đòn giáng thẳng vào đối tượng, lôi tuột hết những xấu xa, giả tạo của chúng, phơi bày trước mắt người đọc.

Đọc thơ Nguyễn Khuyến người đọc thấy hóm hỉnh và thâm thúy thì đến thơ Tú Xương đó lại là sự bực bội, bất mãn đối với cái xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái xã hội ấy đã đẻ ra những thứ nhố nhăng, lố bịch. Ở đậy, người đọc luôn thấy được ngay sự xấu xa của đối tượng bị nhắc đến và thái độ gay gắt của nhà thơ thể hiện trên con chữ mà không cần suy ngẫm, đợi chờ.

Tuy nhiên, châm biếm đả kích sự xấu xa của xã hội mới chỉ là một mặt của lòng yêu nước ở hai nhà thơ. Một mặt khác không kém phần quan trọng là những nỗi buồn rầu, đau đớn thương tiếc luôn giày vò tâm can họ. Cả hai đều ý thức được nỗi nhục mất nước, ý thức được trách nhiệm của kẻ sĩ trước vận mệnh nước nhà rồi bất lực. Họ nghĩ đến giống nòi, tổ tông, biết tỏ thái độ bất hợp tác với kẻ thù, biết khinh bỉ những kẻ bán mất lương tâm. Song đến cuối đời vẫn không thoát được cái vòng bế tắc, quẩn quanh, sự day dứt mà chủ yếu vẫn bởi họ không đủ dũng khí bước vào đấu tranh.

Nguyễn Khuyến đã từng làm quan nhưng khi nhận ra những suy đồi của chế độ ông lập tức dứt áo giã từ. Ra đi theo tiếng gọi của lương tâm ông quyết sống cuộc đời dù nghèo khổ nhưng bảo toàn được danh tiết. Tú Xương không làm quan, đi thi tám lần không đỗ chỉ bởi phạm huý, sai luật.

Đứng trước những đổi thay của thế thái nhân tình, nhân cách nhà nho chân chính của hai con người ấy vẫn giữ được sự vững vàng, kiên trung. Ở họ ta bắt gặp những quan điểm sống giống nhau. Với Nguyễn Khuyến đó là cách sống giả câm giả điếc “Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa”. Tú Xương cũng vậy, sống chỉ là “ấm ờ, giả câm giả điếc”, là “khôn chán thì giả làm ngây” là không cần phô trương chí khí với đời là không màng công danh, ung dung ngoài vòng cương tỏa mà vẫy vũng cho thỏa chí.

Hai con người, hai cách sống, hai cách thể hiện khác nhau, điều đó tạo nên sự độc đáo riêng đối với từng phong cách tác giả đồng thời làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa văn học đất nước. Nhưng dù khác nhau về hình thức, họ lại gặp nhau nơi tấm lòng yêu nước sắt son, chung thủy. Đây chính là yếu tố để cả Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và người thư kí của thời đại Tú Xương luôn đi bên nhau và cùng nhau đường hoàng bước vào cõi bất diệt của văn học Việt Nam.

Đề 3. Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

Bài viết tham khảo:

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là biểu tượng rõ ràng nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương, khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một “tượng đài nghệ thuật” bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Có thể nói bài văn tế là khúc bi tráng về người nghĩa sĩ nồng dân xả thân vì sự sống còn của đất nước. Người nồng dân nghèo khổ chân chất “côi cút làm ăn toan lo nghèo khổ đã tự nguyện đứng lên gánh vác việc nước lớn lao và cực kì gian khổ: đánh giặc. Trước tội ác tày trời của giục Pháp, trước thái độ nhu nhược đến hèn nhát của trỉều đình, họ không thổ bưng tai bịt mắt làm ngơ. Trách nhiệm công dân thúc đẩy họ cầm vũ khí chiến đấu:

“Nào đợi ai đồi, ai hắt, phe tì này xin ra sức đoạn kình;

Chẳng thêm trôn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

   Họ không phải là lính chính quy của triều đình mà chỉ là “dân ấp dân lân, mến nghĩa tàm quản chiêu mộ”. Đó là cái nghĩa vì nước quên mình, dám đánh giặc, dám hi sinh. Điều này hoàn toàn đối lập với lũ quan quân triéu đình tham sống sợ chết. Vì lẽ đó mà hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân càng thêm thương, thêm quý.

Không cần lệnh quan trên, không cần chờ trang bị, cũng chảng đợi tập rèn, họ lao vào cuộc chiến đấu sống chốt với kẻ thù bằng một tinh thần dũng cảm hiếm có: “Kẻ dám ngang, người chém ngược, làm cho mũ tà, ma nỉ hồn kinh. Bọn hè trước, lù ó sau, trôi kệ tàu thiếc, tâu dồng súng nổ”. Tinh thần ấy khiến cho các vũ khí thô sơ trong tay họ trở lên hữu hiệu:”Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia – Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ”.

Cái dũng cảm trong chiến đấu đã khắc phục cái yếu kém trong trang bị. Giữa bức tranh hoành tráng của cuộc chiến đấu, nổi bật hình bóng lồng lộng, hiên ngang của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.

Trong văn thơ ngày xưa của ta có không nhiều những trang miêu tả một trận chiến đấu mà thường là lược tả một vài nét. ở bài văn tế này, nhà thơ đã tả bằng những chi tiết rất chân thực, sống động cho nên không khí hào hùng gần gũi, quen thuộc với cuộc sống, với mọi người. Sức mạnh của nghệ thuật đã biến những hình ảnh tầm thường thành những hình ảnh tượng trưng cho người nghĩa quân nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, vậy mà khi lòng nghĩa cháy lên, họ đã biến thành người chiến sĩ cứu nước anh hùng. Hình bóng họ làm chủ chiến trường, nổi lên trên nến trời, che lấp cả khồng gian, lồng lộng như một tượng đài kì vĩ.

Cảm xúc chủ đạo của vài văn là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn rỏi, mãnh liệt, toàn là những hành động được thể hiện bằng những động từ mạnh mẽ, âm điệu sôi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy được hiệu quả cao nhất của nó… Tất cả hợp thành một âm điệu chiến trận hào hùng, phấn khích. Thật là một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân; với tư tưởng cực kì lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động giết giặc cứu nước của họ.

Gần ba chục nghĩa sĩ nông dân bỏ mình trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cân sức. Cải chết bi tráng của họ khiến con người, cây cỏ trên một miền quê đều thương tiếc: “Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng – Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hơi hàng luỵ nhỏ”. Người chết vì nước non, vì đồng bào, làm sao không xúc động đến đồng bào, non nước ? “Tượng đài nghệ thuật” vé người nghĩa sĩ nồng dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng lên trong khói lửa chiến trận, trong tiếng thét xung phong, và cả trong nước mắt, trong tiếng khóc thống thiết cùa nhà thơ và của nhân dân. Đây là thành công nghê thuật xuất sắc của nhà thơ mù yêu nước Nguyền Đình Chiểu. Bài văn tế như một cái bia, cái mốc, một lâu đài vinh dự cho người nông dân, cho nhân dân lao động Nam Bộ muôn thuở sáng ngời.

Đề 4. Những cảm nhận sâu sắc của anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Bài viết tham khảo:

Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XIX, một thời kì loạn lạc và đau thương của dân tộc khi Tổ quốc Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị.

Ông sinh năm 1822 tại quê mẹ: làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Xuất thân trong một gia đình nhà nho, ông được nuôi dưỡng và giáo dục theo truyển thống nhân nghĩa và những phẩm chất tốt đẹp nhất của người nông dân Nam Kì như hiếu thảo, giàu nghĩa khí và tình thương người bao la.

Năm 21 tuổi, ông thi đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1847, ông ra Huế để chuẩn bị dự kì thi Hương năm Kỉ Dậu (1849), nhưng rồi nhận tin sét đánh – người mẹ thân yêu qua đời (10-12-1848), Nguyễn Đình Chiểu phải bỏ thi, trở về Gia Định chịu tang mẹ, Trên đường trở về quê, vì quá đau buồn, thương khóc mẹ nhiều mà lâm bệnh, rồi mắt ông bị mù.

Hoạ vô đơn chí: Nguyễn Đình Chiểu bị ốm đau tật bệnh, mắt bị mù, cảnh gia đình sa sút, vị hôn thê bội ước… Ông đóng cửa cư tang mẹ cho đến năm 1851; sau đó, ông mở trường dạy học, làm thuốc để cứu người và sáng tác thơ văn thể hiện lí tưởng nhân nghĩa cao đẹp: “Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.

Năm 1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định, rồi lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông rồi ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nhiều bài thơ, bài văn tế ngợi ca những anh hùng đánh Pháp như Trương Công Định, Phan Công Tòng,… những nghĩa sĩ áo vải “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc “. Ông đã nêu cao tấm gương yêu nước, tinh thần trung nghĩa bất khuất sắt son sáng chói.

Ngày 3-7-1888, Nguyền Đình Chiểu qua dời. Đám tang của ông đã có hàng ngàn bà con, cỡ bác, học trò… tới viếng và đưa tiễn; cánh đồng Ba Tri trắng xoá khăn tang.

Nguyễn Đình Chiểu để lại nhiều thơ văn bằng chữ Nôm rất độc đáo và đặc sắc. Trước 1859, có hai truyện thơ: “Truyện Lục Vân Tiên ” và “Đương Từ – Hà Mậu “, sau năm 1859, có nhiều bài thơ như: “Chạy giặc “, 12 bài điếu Trương Công Định, 10 bài thơ điếu Phan Công Tòng, 3 bài văn tế: “Văn tế” nghĩa sĩ cần Giuộc “, “Văn tế Trương Công Định” “Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh “, và truyện thơ “Ngư Tiểu y thuật vấn đáp”.

Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu sáng ngời lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa. Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga là biểu tượng của lòng trung hiếu, tiết hạnh; Hớn Minh, Vương Từ Trực giàu lòng nghĩa khí, thuỷ chung trong tình bạn; ông Quán, ông Ngư, ông Tiều, Lão bà, Tiểu đổng… quên mình làm việc nghĩa, hết lòng yêu thương những kẻ khốn cùng, đau khổ.

Truyện thơ “Ngư Tiểu y thuật vấn đáp” có nhiều cảnh cảm đông, nhiều câu thơ vô cùng thấm thía về đạo lí làm người:

Giúp đời chẳng vụ tiếng danh,

Chẳng màng của lợi, chang ganh ghẻ tài.

Đứa ăn mày cũng trời sinh,

Bệnh còn cứu được, thuốc đành cho không.

Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,

Lòng dạo xin tròn một tấm gương.

   Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa hàm chứa trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là phần tích cực nhất của đạo nho, là truyền thống yêu nước, yêu nhà, yêu người của dân tộc ta, là tinh thần hào hiệp, nghĩa khí của người nông dân Nam Kì. Vì thế, thơ văn Đồ Chiểu đã trở thành hơi thở, nhịp sống và chí nguyện của đồng bào Nam Kì trong gần một thế kỉ rưỡi.

Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc.

Bài thơ “Chạy giặc” mở đầu cho dòng văn thơ yêu nước của dân tộc ta trong thế kỉ XIX. Nhà thơ đau cho nỗi đau của nhân dân lầm than khi “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây”; sôi sục căm thù tội ác tày trời của quân giặc cướp:

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,

Mất ổ đàn chim dáo dác bay.

Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

Đổng Nai tranh ngói nhuốm màu mảy.”

   Ba bài văn tế đã dựng lên những hình tượng kì vĩ về người anh hùng đánh giặc Pháp xâm lược. Đó là Trương Công Định “Giúp đời dốc trọn trang nam tử”; mỗi thôn ấp, mỗi dòng kênh còn lưu giữ bao chiến tích hào hùng:

“Trong Nam tên họ nổi như cồn,

Mấy trận Gò Công để tiếng đồn.

Dấu đạn hãy chìm tàu bạch quỷ,

Hơi gươm thêm rạng thẻ hoàng môn.”

   Đó là Phan Công Tòng xây đồn đắp luỹ đánh Pháp mấy năm dài, nêu cao lòng trung nghĩa và khí phách anh hùng, bất khuất:

“Viên đạn nghịch thần reo trước mặt,

Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay “

“Tinh thần hai chữ phau sương tuyết,

Khí phách ngàn thu rỡ núi non.”

   “Văn tế nghĩa sĩ Cấn Giuộc” là kiệt tác văn chương của Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời. Các nghĩa sĩ là những dân ấp, dân lân, “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Họ sống cuộc đời bình dị, cần lao “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ Lòng căm thù giặc như ngọn lửa ngùn ngụt bốc cao, họ quyết không dung tha quân cướp nước:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;

Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ!”

   Chỉ có một lưỡi dao phay làm gươm, một gậy tầm vông làm giáo, “hoả mai đánh bằng rơm con cúi” thế mà các nghĩa sĩ đã “chém rớt đầu quan hai nọ”, đã “dốt xong nhà dạy đạo kia”, đã “đâm ngang chém ngược làm cho mã tà, ma nỉ hồn kỉnh! ”

Khí phách của các nghĩa sĩ vô cùng hiôn ngang lẫm liệt, sáng mãi đến ngàn thu: “Song đánh giặc, thác cũng dành giặc, linh hồn theo giúp cơ bỉnh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia”. Tượng đài người nghĩa sì mà nhà thơ dựng lên thật vô cùng bi tráng, vì đó là những anh hùng thất thế mà dũng mãnh, hiên ngang, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ

Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã gieo vào lòng nhân dân ta một niềm tin chói sáng:

“Chừng nào Thánh để ân soi thấu,

Một trận mưa nhuần rửa núi sông.”

“Sau trời thúc quỷ tan mây,

Sông trong biển lặng, mắt thầy sáng ra.”

“Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng,

Bốn biển âu ca hiệp một nhà.”

   Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu rất đa dạng, phong phú và đậm đà. Dưới ngòi bút nghệ thuật của ông, thơ lục bát, thơ thất ngôn, văn tế, thể loại nào cũng đặc sắc, độc đáo. Nếu truyện thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa bình dị thì văn tế lại bi hùng, thống thiết, trữ tình lay động hồn người:

“Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;

Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trươc ngõ.”

(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)

Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp bước gian truân;

Đất Gò Công, cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái”

(Văn tế Trương Công Định)

“Ôi! Trời buông nàn quỷ trắng mây năm;

Người uống hận suối vàng lắm bực.”

(Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh)

   Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Đình Chiểu trong truyện thư mang đậm màu sắc dân gian, binh dị mà gợi cảm, làm cho người nghe, người đọc dễ nhớ và nhớ mãi: “Truyện nàng sau hãy còn lâu – Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra”, hoặc: “Đoạn nầy đến thứ Nguyệt Nga – Hà Khê phủ ấy theo cha học hành” v.v…

Cảnh vật, câu chuyện, con người và ngôn ngữ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều mang hương vị và sắc thái Nam Bộ. Nhiều câu ví, câu ca vùng Ba Tri, Đồng Nai, Bến Nghé, Gò Công… như đã nhập hồn vào thơ văn Đồ Chiểu. Tính nhân dân sâu sắc, tính Nam Bộ đậm đà là bản sắc, giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Có thể dẫn ra đôi ba câu thơ quá mộc mạc, nhưng Đồ Chiểu mãi mãi là nhà thơ lớn của nhân dân ta, đất nước ta. “Đời song và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng” (Phạm Văn Đồng).

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status