Soạn bài Viết bài làm văn số 2: Văn tự sự trang 81 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Viết bài làm văn số 2: Văn tự sự, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
Hướng dẫn soạn bài – Viết bài làm văn số 2: Văn tự sự
Giải đề 1 – Viết bài làm văn số 2: Văn tự sự (trang 81 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Kể lại một truyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích (ví dụ: Sọ dừa, Bến quê, Những ngôi sao xa…)
Trả lời:
1. Mở bài
– Giới thiệu về câu chuyện mình yêu thích.
2. Thân bài
– Giới thiệu gia cảnh bố mẹ Sọ Dừa.
– Sự ra đời thần kì và hình ảnh dị dạng của Sọ Dừa.
– Sọ Dừa đi chăn bò cho nhà Phú ông những tưởng sẽ rất khó khăn nhưng cậu chăn rất giỏi.
– Phú ông cắt cử ba cô con gái đưa cơm cho Sọ Dừa.
+ Hai cô chị ác nghiệt, kiêu kì, thường hắt hủi Sọ Dừa.
+ Cô út hiền lành, tính hay thương người, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế.
– Cô út nhiều lần bắt gặp Sọ Dừa biến thành chàng trai tuấn tú khôi ngô đem lòng yêu thương chàng.
– Sọ Dừa đòi mẹ sang hỏi cho mình con gái Phú ông.
– Hai cô chị xấu tính nên từ chối. Cô út vì biết được thân hình của Sọ Dừa nên cúi mặt, e lệ bằng lòng.
– Sọ Dừa đi thi. Trước khi đi còn dặn dò và trao cho vợ những vật hộ thân.
– Hai cô chị bày mưu ác rồi đẩy cô em vào bụng cá.
– Cô em không chết, giạt vào sống ở đảo hoang rồi may mắn nhờ vào những vật hộ thân mà gặp được chồng mình.
– Hai cô chị thấy cô em trở về thì xấu hổ bỏ đi biệt tích.
– Vợ chồng quan trạng từ đấy sống hạnh phúc bên nhau.
3. Kết bài
– Bài học rút ra từ câu chuyện.
Giải đề 2 – Viết bài làm văn số 2: Văn tự sự (trang 81 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Hãy tưởng tượng mình là Xi-mông, kể lại truyện Bố của Xi-mông.
Trả lời:
1. Mở bài
– Giới thiệu:
+ Tôi là Xi-Mông, là con của mẹ Blăng-sốt và bố Phi-líp yêu thương.
+ Thế nhưng, các bạn biết không, trước đây tôi đã vô cùng đau khổ vì bị coi là đứa trẻ không có bố.
2. Thân bài
Kể lại lần lượt các sự kiện trong đoạn trích “Bố của Xi-Mông”.
– Hôm ấy là ngày đầu tiên tôi đi học:
+ Bị bạn bè trêu như thế nào?
+ Bản thân đau đớn ra sao? (trong suy nghĩ, hành động,…)
+ Cảm giác sợ hãi, muốn lẩn tránh, xa lánh bạn bè
– Tôi đã bỏ lên bờ sông, trong đầu vướng vấn ý định tự tử ngay lúc ấy.
+ Tâm trạng vô cùng tuyện vọng lúc ở bờ sông.
+ Cảnh vật lúc đó thế nào? Nó khiến “tôi” cảm giác ra sao?
– Đang tuyệt vọng, bỗng nhiên có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi. Đó là bác thợ rèn Phi-líp.
+ Bác thợ rèn nói chuyện với mình ra sao.
+ Bác đưa mình về và nói chuyện với mẹ thế nào.
– Vô cùng sung sướng khi Bác Phi-líp đồng ý nhận làm cha của mình. Muốn khoe với các bạn và tự hào vì mình có bố.
3. Kết bài
– Đây là câu chuyện có ý nghĩa nhất đối với bản thân tôi.
– Kể từ ngày ấy tôi luôn hạnh phúc và tự hào vì được sống trong tình thương yêu của cả bố mẹ tôi.
Giải đề 3 – Viết bài làm văn số 2: Văn tự sự (trang 81 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thuỷ cung, Trọng Thuỷ đã tìm gặp lại Mị Châu. Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện đó.
Trả lời:
1. Mở bài
– Sau khi an táng cho vợ, Trọng Thuỷ ngày đêm buồn rầu khổ não.
– Hàng ngày, Trọng Thủy thường ra bên giếng, nhớ lại những chuyện vợ chồng ngày xưa.
– Trọng Thủy nhảy xuống giếng tự tử để đền tộ với Mị Châu, với Âu Lạc.
2. Thân bài
– Trọng Thuỷ lạc xuống Thuỷ cung.
+ Vì trong lòng luôn ôm nỗi nhớ Mị Châu nên sau khi chết, linh hồn Trọng Thuỷ tự tìm đến thuỷ cung.
+ Miêu tả cảnh ở dưới thuỷ cung (cung điện nguy nga lộng lẫy, người hầu đi lại…).
– Trọng Thuỷ gặp lại Mị Châu.
+ Đang ngơ ngác thì Trọng Thuỷ bị quân lính bắt vào đại điện.
+ Trọng Thuỷ được đưa đến quỳ trước mặt một người mà lính hầu gọi là công chúa.
+ Sau một hồi lục vấn, Trọng Thuỷ kể rõ mọi sự tình trong niềm ân hận. Lúc ấy Mị Châu đã cảm động, rưng rưng nước mắt.
– Mị Châu kể lại chuyện mình và trách Trọng Thuỷ.
+ Mị Châu chết, được vua Thuỷ Tề nhận làm con nuôi.
+ Mị châu cứng rắn nặng lời phê phán oán trách Trọng Thuỷ: Trách chàng là người phản bội; trách chàng gieo bao đớn đau cho hai cha con nàng và đất nước.
+ Mị Châu nhất quyết cự tuyệt Trọng Thuỷ rồi cả cung điện tự nhiên biến mất.
– Trọng Thuỷ còn lại một mình: Buồn rầu, khổ não, Trọng Thuỷ mong ước nước biển ngàn năm sẽ xoá sạch lầm lỗi của mình.
3. Kết bài
– Trọng Thuỷ hoá thành một bức tượng đá vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương.
* Lưu ý: Người viết có thể vẫn dựa vào dàn ý nêu trên nhưng có thể chọn nội dung câu chuyện khác, ví dụ:
– Trọng Thuỷ và Mị Châu gặp gỡ nhau. Hai người tỏ ra ân hận. Nhưng rồi họ quyết định từ bỏ mọi chuyện ở dương gian để sống cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nơi đáy nước.
+ Sau khi nghe Trọng Thủy giải thích, ban đầu Mị Châu không đồng ý tha thứ, nhưng Trọng Thủy đã làm mọi việc để chuộc lỗi, thể hiện sự thay đổi của bản thân nên đã nhận được sự tha thứ, hai người trở thành tri kỉ.
⇒ Nếu chọn phát triển câu chuyện theo hướng này, ta nhấn mạnh đến chi tiết ngọc trai – giếng nước – lời tha thứ của Mị Châu dành cho Trọng Thủy.
Giải đề 4 – Viết bài làm văn số 2: Văn tự sự (trang 81 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Kể lại một kỉ niệm sâu sắc của anh (chị) về tình cảm gia đình hoặc tình bạn, tình thầy trò theo ngôi kể thứ nhất.
Trả lời:
* Gợi ý chủ đề: Cô giáo – người thay đổi cuộc đời tôi.
1. Mở bài:
– Do được bố mẹ chiều từ nhỏ nên tôi là một đứa trẻ ham chơi và hay quậy phá trong lớp.
– Mọi giáo viên đều không thích tôi, cho đến khi tôi gặp cô Mai – Giáo viên chủ nhiệm lớp 3 của mình.
2. Thân bài:
– Sự ham chơi và những trò quậy phá tôi hay làm trên lớp ⇒ Mọi người xa lánh, bạn bè và thầy cô không thích.
– Cô giáo mới nhận lớp (hình dáng và tính cách).
– Những trò nghịch ngợm của tôi đã được cô giải quyết bằng tình yêu thương.
– Cô bảo ban, dạy cho tôi từng li từng tí, giúp tôi trở thành một học sinh gương mẫu của lớp.
– Tôi giúp đỡ các bạn và mọi người xung quanh nên được mọi người yêu quý.
– Cảm nhận về những ngày đó, thể hiện lòng biết ơn với cô.
3. Kết bài:
– Tôi nỗ lực học tập và trở thành một thầy giáo.
– Lời cảm ơn đối với cô.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Viết bài tập làm văn số 2: Văn tự sự
Đề 1. Kể lại một truyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích (ví dụ: Sọ dừa, Bến quê, Những ngôi sao xa…)
Trả lời:
a) Mở bài: Giới thiệu truyện ngắn “Bến quê”.
b) Thân bài:
– Nhĩ là người từng trải, đã từng khi nhiều nơi trên thế giới trong suốt cuộc đời mình.
– Thế nhưng, đến cuối đời anh mới nhận ra một nơi ngay gần nhà mình mà chưa từng đặt chân đến..
– Từ đây những dằn vặt trong anh diễn ra, và anh nhận ra nhiều điều giản dị vô ngần từ người vợ tần tảo.
– Anh muốn đứa con trai sẽ thực hiện ước mơ của anh đí ang kia bãi bồi bên kia sông đẻ tận hưởng vẻ đẹp của nó.
– Nhưng tiếc rằng thằng bé lại bị cuốn vào thú vui mà xao nhãng nhiệm vụ của bố.
c) Kết bài: Câu chuyện khép lại với hành động của Nhĩ vẫy tay nhưu muốn nhắc nhở đứa con.
Đề 2. Hãy tưởng tượng mình là Xi-mông, kể lại truyện Bố của Xi-mông.
Trả lời:
a) Mở bài: Giới thiệu câu chuyện thông qua lời của Xi-mông.
b) Thân bài: Kể lại câu chuyện theo trình tự các sự kiện bằng ngôi kể của Xi-mông.
– Tôi luôn bị các bạn xa lánh và bắt nạt do không có bố.
– Tôi thất vọng và rầu rĩ ngồi bên bờ sông thì chú Philip xuất hiện, trò chuyện cùng tôi, an ủi tôi và đưa tôi về nhà.
– Tôi nhận chú Philip làm bố của mình và luôn giữ niềm tin mình có một người bố là chú Philip.
c) Kết bài: Kết lại câu chuyện.
Đề 3. Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thuỷ cung, Trọng Thuỷ đã tìm gặp lại Mị Châu. Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện đó.
Trả lời:
Đối với đề này, có ba tình huống có thể xảy ra, học sinh lựa chọn tình huống rồi viết thành câu chuyện:
– Gặp lại Trọng Thủy, Mị Châu cảm động và nhận lời nối lại duyên xưa.
– Gặp lại Trọng Thủy, Mị Châu tức giận bỏ đi.
– Gặp lại Trọng Thủy, Mị Châu giảng giải lẽ đúng sai. Trọng Thủy rất ân hận, muốn nối lại duyên xưa, nhưng Mị Châu không chấp nhận.
Gợi ý dàn bài:
a) Mở bài: Hoàn cảnh (không gian, thời gian, tình huống xảy ra câu chuyện): Sau khi tự tử ở Loa Thành, xuống thủy cung, Trọng Thủy đã tìm gặp lại Mị Châu.
– Sau khi an táng cho vợ, Trọng Thuỷ ngày đêm buồn rầu khổ não.
– Một hôm đang tắm, Trọng Thuỷ nhìn thấy bóng Mị Châu ở dưới nước bèn nhảy xuống giếng ôm nàng mà chết.
b) Thân bài
– Khung cảnh của cuộc gặp gỡ dưới thủy cung:
+ Quang cảnh chung.
+ Sự xuất hiện của Mị Châu.
– Tâm trạng của Mị Châu – Trọng Thủy sau khi gặp lại nhau trong suốt thời gian dài xa cách:
+ Trọng Thủy vui mừng khôn xiết.
+ Mị Châu xao xuyến nhưng oán trách, giận hờn.
– Câu chuyện của Mị Châu và Trọng Thủy ở chốn thủy cung:
+ Mị Châu trách Trọng Thủy và nhớ lại những kỉ niệm về tình yêu. Nàng cũng đau đớn kể về kết cục của cha và chính mình.
+ Trọng Thủy thanh minh cho những lỗi lầm của mình, khẳng định tình cảm của mình với Mị Châu, và bày tỏ ước nguyện muốn nối lại duyên xưa.
+ Tuy rất xúc động trước tấm lòng của Trọng Thủy, nhưng Mị Châu không đồng ý lại nối duyên với chàng.
+ Trọng Thủy đau khổ từ giã nhưng những hàng nước mắt cứ tuôn ra như mưa. Chàng hóa thân thành những bọt nước biển mang hình giọt lệ.
c) Kết bài: Nêu cảm xúc của nhân vật Trọng Thủy.
Đề 4. Kể lại một kỉ niệm sâu sắc của anh (chị) về tình cảm gia đình hoặc tình bạn, tình thầy trò theo ngôi kể thứ nhất.
Trả lời:
a) Mở bài
– Giới thiệu mối quan hệ của bản thân với người mà mình đã có được kỉ niệm giàu ấn tượng và sâu sắc (ông bà, cha mẹ, bạn bè, thầy cô…).
– Kể lại hoàn cảnh nảy sinh kỉ niệm ấy.
b) Thân bài
* Giới thiệu chung về tình cảm của bản thân với đổi tượng.
* Kể về kỉ niệm.
– Câu chuyện diễn ra vào khi nào?
– Kể lại nội dung sự việc.
+ Sự việc xảy ra thế nào?
+ Cách ứng xử của mọi người ra sao?
– Kỉ niệm ấy đã để lại trong bản thân điều gì? (Một bài học, thêm yêu quý ông bà, bạn bè, thầy cô hơn…).
c) Kết bài
– Nhấn mạnh lại ý nghĩa của kỉ niệm ấy.
– Tự hào và hạnh phúc vì có được người ông (bà, cha mẹ, bạn, thầy cô …) như thế.
Bài văn mẫu tham khảo – Viết bài tập làm văn số 2: Văn tự sự
Đề 1. Kể lại một truyện cổ tích hoặc một truyện ngắn mà anh (chị) yêu thích (ví dụ: Sọ dừa, Bến quê, Những ngôi sao xa…)
Bài văn mẫu:
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy, cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có cả gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lấy dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:
Ò… ó… o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Đề 2. Hãy tưởng tượng mình là Xi-mông, kể lại truyện Bố của Xi-mông.
Bài văn mẫu:
Tôi là đứa trẻ bất hạnh vì không có bố. Tuy lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ nhưng tôi vẫn thấy thiếu thôn tình cảm của một người bố. Điều mà tôi sợ nhất là ngày ngày đến trường, lũ trẻ nghịch ngợm cứ quây quanh tôi mà la toáng lên: “Ê, ê! Thằng con hoang không có bố!”.
Hồi ấy tôi khoảng bảy hoặc tám tuổi, xanh xao nhút nhát. Điệu bộ của tôi vụng về ngượng nghịu đến phát tội. Tan trường về nhà, tai tôi nghe đầy lời đám trẻ xầm xì không ngừng. Chúng ranh mãnh theo dõi từng bước của tôi. Bằng trò trêu ghẹo độc ác vô tội vạ của con nít, chúng chặn trước chặn sau, bao vây dồn tôi vào giữa. Tôi chỉ biết đứng chịu trận, vừa ngạc nhiên, vừa hoang mang sợ hãi chẳng biết chúng muốn gì. Mặc dù mẹ dặn là tránh xa chúng nó ra nhưng đã vài lần, tôi không thể kìm được cơn giận dữ, lao vào đánh đấm chúng túi bụi. Đương nhiên là rồi bị chúng tẩn cho ra trò. Tôi về mách mẹ. Mẹ ôm tôi vào lòng vuốt ve, an ủi, nhưng rốt cuộc thì cả hai mẹ con cùng khóc.
Một hôm, tình trạng ấy lại tái diễn. Tôi nổi giận, vừa túm tóc tên nhóc vừa giơ chân đá. Tôi còn nhào đến, dữ tợn cắn vào má tên nhóc một phát, mở màn trận đấm đá tay đôi ác liệt, giữa đám giặc con đứng vòng ngoài vỗ tay reo hò. Tàn cuộc, tôi u đầu sứt trán, tay chân quần áo đầy đất cát. Một thằng lõi còn quát tôi:
Về méc với cha mày đi!
Tim tôi đau nhói. Chúng nó đông hơn, chỉ lấy thịt đè người cũng đủ chết, và tôi chẳng thể mở mồm biện minh được gì. Thật sự tôi chẳng có cha. Tôi nghẹn ngào, nhưng vì niềm kiêu hãnh, tôi cắn răng không khóc trước mặt lũ ranh. Tôi cố nén dòng nước mắt đang trào lên, nhưng niềm tức tưởi òa thành tiếng nấc không ngừng. Lũ ranh vỡ trận cười thoả thích. Chúng tay nắm tay nhau, reo hò nhảy múa quanh tôi bằng điệp khúc, “Con không cha! Ê hê con không cha”. Tôi buồn bã bỏ học, lang thang ra bờ sông vắng. Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, bỗng dưng tôi muôn chết… Tôi muốn dìm mình xuống sông vì không có cha. Tôi tuyệt vọng, chạm chân vào nước, đăm chiêu nhìn dòng sông lững lò trôi. Vài con cá nhảy lên mặt nước xanh để đớp ruồi. Tôi nín khóc, thích thú nhìn cảnh ngộ nghĩnh đang diễn trước mắt.
Tuy nhiên, giữa lúc giông bão trong lòng tôi tạm lắng, như ngọn gió thình lình táp mạnh vào thân cây rồi ào đi, nó lại nghe niềm đau cào cấu. “Tôi muốn buông mình cho chết vì làm con không cha”. Tôi định nhảy ùm xuống, mặc cho dòng nước cuốn trôi đến đâu thì đến, chết lại càng hay! Lũ trẻ sẽ chẳng còn trêu chọc tôi được nữa và nỗi khổ tâm của tôi sẽ hoàn toàn chấm dứt. Tôi chìm ngập trong cảm xúc đau thương. Gối đầu lên đôi bàn tay, tôi nằm ngửa nhìn trời. Trên cao là bầu tròi xanh cao vòi vợi. Những đám mây đủ mọi hình thù lãng đãng trôi. Ô kìa! Rõ ràng ba đám mây trắng ở sát ben nhau trông giông bố mẹ cùng dắt tay đứa con thơ. Tôi chợt bật khóc nức nở và gọi thật to: “Bố ơi! Bố ở đâu? Sao bố không về với con?”. Không một lời đáp lại. Chỉ có tiếng gió thổi xào xạc trong đám sậy ven sông. Tôi úp mặt xuống cỏ ướt, dần dần tỉnh lại. Rồi tôi nghĩ đến mẹ, Mẹ Blăng-sốt yêu quý của tôi! Nếu tôi không về nhà đúng giờ, mẹ sẽ lo lắng, sốt ruột biết chừng nào! Nếu tôi chết, chắc mẹ sẽ khóc hết nước mắt, có khi mẹ cũng sẽ chết theo tôi.
Trồi thật ấm. ánh hồng trải mình trên cỏ, và dòng nước trong như gương. Tôi tận hưởng giây phút êm ả, đoạn mệt nhoài buông mình mơ màng trên thảm cỏ. Có con nhái xanh từ đâu nhảy dưới chân tôi. Tôi chồm người chụp lấy, nhưng con nhái vụt mất. Tôi rượt theo đến lần thứ tư mới bắt được. Nhìn con nhái cố sức ngọ nguậy trên tay nó để trốn thoát, tôi bật cười. Con nhái dồn sức xuống đôi chân sau, cố bật mạnh lên như chàng lực sĩ đang cử tạ. Tròng mở to như muôn lọt khỏi vòng mắt màu vàng viền bèn ngoài, và hai chân trước chòi đạp như thể hai tay đang quơ ra cầu cứu. Hình ảnh ấy khiến tôi nhớ món đồ chơi của mình. Món đồ chơi được ghép bằng những mảnh gỗ nhỏ đóng từng đoạn chồng lên nhau. Trên ấy là hàng lính tí hon, thao tác tùy theo mảnh gỗ chuyển động.
Nghĩ đến đây, tôi nhỏ nhà, nhớ mẹ, và tủi thân bật khóc. Tay chân tôi run rẩy, tôi buông người quỳ xuống và cầu nguyện như hằng đêm trước khi đi ngủ. Chưa cầu nguyện xong, điều đau khổ lại trào dâng trong lòng khiến tôi òa khóc lớn. Bất ngờ, có bàn tay ai nặng trịch đặt lên vai nó. Theo đó là giọng nói trầm trầm:
– Bé con ơi, việc gì khiến con buồn đến thế…
Tôi quay lại. Một người thợ với hàm râu đen và mái tóc dợn từng sợi, đang chăm chú nhìn tôi. Tôi tức tưởi:
– Tụi nó đánh con vì con không có cha.
Người thợ mỉm cười:
– Sao kỳ cục vậy… Ai cũng có cha mà con.
Tôi đau thắt người, trả lời.
– Nhưng con không có.
Nghe câu nói, người thợ bôi rối và bảo tôi:
– Nín khóc đi con. Chú sẽ dắt con về với mẹ. Mẹ con sẽ chỉ cho biết cha ở đâu.
Về đến trước căn nhà nhỏ xinh xắn. Tôi gọi to:
– Mẹ ơi, mẹ!
– Thưa cô, tôi gặp cháu đi lạc ngoài bến sông…
Tôi nhào ôm cổ mẹ, mếu máo.
– Không phải mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông. Tại tụi nó đánh con… Tụi nó đánh con vì con không có cha.
Mặt mẹ tôi ửng đỏ, ôm vội con vào lòng mà nước mắt tuôn trên má. Tôi chạy đến chân chân người thợ nói:
– Chú làm cha con được không…?
Ngột ngạt bao trùm, không ai nói một lòi. Tôi liền tuyên bố:
– Nếu chú không chịu làm cha của con, con sẽ nhảy xuống sông.
– Được chứ sao không, nhóc con.
Tôi làm quen.
– Chú tên gì để có ai hỏi thì con nói?
– Philip
Tôi ghi nhớ vô lòng và quả quyết nói với chú:
– Bây giờ chú là cha của con!
Còn gì hay hơn thế nữa?! Tôi sung sướng ôm ghì lấy cổ chú Phi-líp, dụi mặt vào bé ngực vạm vỡ của chó.
Ngày hôm sau đi học, lũ bạn lại xúm vào trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận dữ, tôi kiêu hãnh đáp: “Bô” tớ là thợ rèn Phi-líp!”. Lũ bạn nhao nhao: “Không đúng! Không đúng! Mày phải có một ông bố đàng hoàng như chúng tao cơ!”. Tôi không hiểu thế nào là một ông bố đàng hoàng nên đành nín nhịn, chờ tan buổi học. Lúc đi ngang qua lò rèn, tôi rẽ vào gặp bố Phi-líp của tôi, kể mọi chuyện cho bè nghe. Tôi thấy vẻ mặt bố trầm ngâm hẳn. Bố lẩm bẩm: “Thôi được! Thôi được! Con hãy về nhà đi! Con sẽ có bố, ông bố thực sự, ông bố đàng hoàng của con!”.
Sau đó, một điều tuyệt vời xảy ra: bố Phi-líp đến gặp mẹ tôi, ngỏ lời cầu hôn với mẹ Blăng-sốt của tôi. Bố bảo tôi cần có bố thật sự, cần người bảo vệ. Bố Phi-líp đã đem lại cơ hội cho mẹ tôi được làm vợ một người đàn ông tử tế. Khỏi phải nói tôi vui mừng đến chừng nào! Thế là từ nay, đố đứa nào dám ức hiếp tôi nữa. Bố Phi-líp mạnh mẽ và tốt bụng sẽ là chỗ dựa chắc chắn cho cuộc đời tôi. Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, cứ hết nhìn tôi lại nhìn Phi-líp. Rồi mẹ lấy chiếc khăn choàng trên vai, lau nước mắt.
Hôm sau đến trường, khi cả lớp chuẩn bị đọc bài thì tôi đứng lên. Mặt tái xanh và môi run run, nhưng tôi nói rõ ràng từng chữ:
– Cha tao… cha tao là Philip Remy, làm thợ rèn. Đứa nào láng cháng, cha tao sẽ kéo đứt tai.
Không một ai trong đám trẻ dám mở miệng cười. Người thợ rèn Philip Remy nổi tiếng chúng đều biết, và đứa nào cũng đều hãnh diện có người cha oai phong như thế. Bố Phi-líp đã đến ở hẳn với hai mẹ con tôi. Tôi rất thích đi dạo dọc bò sông mỗi chiều để tôi âu yếm nói: “Bố Phi-líp của con! Con yêu bố lắm!”
Đề 3. Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thuỷ cung, Trọng Thuỷ đã tìm gặp lại Mị Châu. Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện đó.
Bài văn mẫu:
Tôi là Mị Châu, con gái yêu của vua An Dương Vương. Người con gái được vua cha yêu thương hết mực nhưng cũng gieo vạ lớn cho cha và đất nước vì nhẹ dạ và ngây thơ tin người. Câu chuyện của tôi là một bài học đắt giá để người đòi soi vào, lấy đó làm lòi răn về sự cảnh giác. Cho đến tận bây giò cái cảm giác đau đớn vì bị phản bội vẫn còn âm ỉ trong tôi. Các bạn chia sẻ cùng tôi nhé.
Sau khi giúp cha tôi xây thành cổ Loa, thần Kim Quy cho cha tôi một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. Cha tôi chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mối xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn với những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nôi. Cha quý chiếc nỏ thần vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.
Lúc bấy giờ Triệu Đà chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì cha tôi có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thòi cơ. Triệu Đà thấy dùng binh không được, bèn xin giảng hòa với cha tôi, sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân, nhưng chủ ý là tìm cách phá chiếc nỏ thần. Điều này thì về sau, khi quân đà kéo sang và nỏ thần không còn hiệu nghiệm, cùng cha bỏ trông tôi mới vỡ lẽ. Trong những ngày đi lại để giả kết tình hoà hiếu, Trọng Thuỷ gặp tôi, con gái yêu của An Dương Vương. Lúc bấy giò tôi là một cô gái mới lớn, một thiếu nữ mày ngài, mắt phượng. Trọng Thuỷ đem lòng yêu tôi, tôi dần dần cũng xiêu lòng. Và dần trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa thành mà tôi không dẫn người yêu đến xem. Cha tôi không nghi kỵ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả tôi cho Trọng Thuỷ. Chàng sang hẳn cung điện của cha tôi, cùng chung sống. Một đêm trăng sao vằng vặc, tôi và Trọng Thủy ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao nhất. Trong câu chuyện tỉ tê, Trọng Thuỷ hỏi: Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được? Tôi vô tư đáp:
– Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thê còn có kẻ nào đánh nổi được?
Chàng ngỏ ý muôn xem chiếc nỏ. Tôi không ngần ngại, ngây thơ chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem, lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy cách bắn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu, rồi đưa cho tôi cất đi.
Sau đó, Trọng Thủy xin phép cha tôi về Nam Hải, Trọng Thủy thuật lại cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một chiếc lẫy nỏ giống hệt của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong, Trọng Thủy giấu vào trong áo, lại trỏ sang Âu Lạc. Cha vốn chiều tôi, thấy con gái mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ sung sướng, liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn cha và tôi say túy lúy. Thừa lúc bố vợ say, Trọng Thủy lẻn ngay vào phòng tháo lấy cái lẫy bằng móng chân thần Kim Quy và thay cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào. Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, tôi hỏi:
– Chàng như có gì lo lắng phải không?
Trọng Thủy đáp: Ta sắp phải đi, Phụ vương dặn phải về ngày để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ. Tôi buồn rầu lặng thinh, Trọng Thủy nói tiếp: Bây giò đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giò gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, biết đâu mà tìm?
Tôi tin lời chàng ngay, lòng đau đớn nói:
– Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm.
Nói xong tôi nức nở khóc. Về đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa cái móng rùa vàng cho cha. Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà đã ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc. Nghe tin bao, cha cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đến khi quân giặc đã đến sát chân thành, cha sai đem nỏ thần ra bắn thì không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. Cha vội lên ngựa, để tôi ngồi sau lưng, phi thoát ra cửa sau.
Ngồi sau lưng cha, tôi bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.
Đường núi gập ghềnh hiểm trỏ, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bò biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến. Thấy đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biển, khấn thần Kim Quy phù hộ cho mình. Cha vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện, bảo cha rằng:
– Giặc ở sau lưng nhà vua đây!
Cha tỉnh ngộ, tôi cũng chợt đau đớn hiểu ra sự tình, nguyện sinh nhận cái chết để chuộc lỗi lầm khủng khiếp mà mình đã gây ra. Tuy vậy lòng tôi không khỏi ân hận. Tôi tự trách mình đã gây ra cảnh mất nước, trách Trọng Thủy nỡ lợi dụng tình yêu và tấm lòng trong trắng của tôi. Sống dưới Thủy cung tôi không phút nào thanh thản và thể sẽ không để ai lợi dụng mình nữa. Tôi cố gắng làm những việc tốt để mong bù lại tội lỗi đã gây ra. Nhưng trong tôi, hình bóng Trọng Thủy vẫn còn đâu đó và chợt nhói đau mỗi khi nhớ về chàng với nỗi xót xa và oán hận.
Thế rồi thật bất ngờ, trong ngày hội lớn ở Thủy cung, tôi gặp chàng. Không nghỉ là chàng có mặt ở chôn này, tôi lúng túng vài giây khi đòi mặt nhưng sau đó bỏ đi. Tôi không muốn nhìn thấy con người phản bội đã gây cho cả đất nước tôi cảnh đau thương, gây cho cha tôi nỗi đau của một ông vua mất nước, gây cho tôi vết thương lòng và cướp mất của tôi niềm tin vào tình yêu và lòng tốt của con người. Tôi hận chàng suốt bao năm qua, và giò đây nỗi hối hận ấy bùn lên mạnh mẽ. Chàng đuổi theo tôi, vừa chạy vừa gọi:
– Mị Châu nàng ơi! Ta đã đi tìm nàng theo dấu lông ngỗng từ ngày ấy. Ta biết nàng hận ta nhưng hãy cho ta cơ hội giãi bày!
Trời ơi vẫn giọng nói trầm ấm thân thương ấy. Nhưng không thể tin lời nữa. Tôi xua đuổi:
– Tôi không còn lòng tin vào người nữa. Bây giờ tôi cũng không còn gì cho ngươi cả. Hãy đi đi, đừng bao giờ xuất hiện và làm vết thương trong lòng ta thêm đớn đau!
Trọng Thủy vẫn một mực tha thiết. Chàng đuổi kịp tôi và quỳ xuống van xin:
– Ta biết nàng hận ta nhiều lắm, ta cũng biết không thể nào chuộc được lỗi lầm đã gây ra. Nhưng xin nàng hãy cho ta tỏ bày lòng mình. Rồi chàng kể:
– Quân của Triệu Đà kéo vào chiếm đóng Loa thành, còn ta một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm vợ. Đến gần bờ biển, thấy xác nàng nằm trên đám cỏ. Tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Ta đớn đau, khóc ngất đi, trong lòng như cắt, rồi thu nhặt thi hài nàng đem về chôn trong thành. Không còn nàng, ta cũng chả thiết sông nữa. Bổn phận với cha ta đã xong, rồi ta đâm đầu xuống giếng trong thành mà xưa kia nàng thường tắm để chết cùng nàng.
Đến đây tôi chợt hiểu vì sao chàng có mặt ỏ Thủy cung. Chàng từ bỏ danh vọng, từ bỏ chiến thắng, từ bỏ cả vua cha, ngai vàng để tìm tôi. Nhưng nỗi uất hận trong tôi không dễ gì nguội vơi. Xót xa, tôi hỏi chàng:
– Chàng yêu thiếp như thế sao nỡ lợi dụng lòng tin và tình yêu trong sáng của thiếp?
– Đấy là sai lầm lớn nhất của đời ta. Tuổi trẻ và sự nông nổi khiến cho ta chỉ biết nghe theo lòi cha một cách mù quáng. Giá như được trở lại những ngày tháng ấy, thay vì trộm nỏ thần để báo hiểu ta sẽ giúp hai người cha trút bỏ hận thù và mộng xâm lược. Ta sẽ không phạm tội với nàng, không mất nàng, không phải sông trong đau đớn, giày vò. Đòi này ta nguyện chỉ yêu mình nàng. Trong lòng ta không có hình ảnh người đàn bà nào khác nàng có biết không?
Chàng nói trong nước mắt. Tôi cũng khóc và chợt hiểu rằng cả hai chúng tôi đều là nạn nhân, là người bị lợi dụng mà thôi. Tôi gục vào vai chàng, những uất nghẹn trong lòng tôi bao năm qua theo nước mắt đẫm ướt áo chàng. Dù là kẻ tội lỗi với cha, với đất nước nhưng tôi vẫn tha thiết mong nhận được sự cảm thông. Tôi biết trái tim mình không “nhầm chỗ để trên đầu” như người ta nói. Tôi cũng muốn nói với các bạn trẻ rằng: Đừng bao giờ mắc sai lầm như tôi và Trọng Thủy cả. Hãy sông bằng tình yêu thay cho toan tính và hận thù!
Đề 4. Kể lại một kỉ niệm sâu sắc của anh (chị) về tình cảm gia đình hoặc tình bạn, tình thầy trò theo ngôi kể thứ nhất.
Bài văn mẫu:
Như một tín hiệu không rõ ràng cụ thể, thoắt thu sang, những hàng cây ven đường rùng mình đổi áo mới: Những chiếc là vàng thấm đãm hương vị ngọt ngào se lạnh của mùa thu lác đác bay. Mỗi lần, nhìn chiếc lá lìa cành chu du cùng cơn gió heo may, tôi lại nhớ đến ông nội. Những chuổi kỷ niệm về ông như theo cái sắc vàng giòn tan của mùa thu ùa về trong tâm trí, khiến tôi không khỏi bồi hồi.
Ông tôi là một người mà tôi rất mực yêu mến và kính yêu. Thủa nhỏ, tôi hường hay tưởng tượng ông như một cây đại thụ: Cái dáng ông cao lớn, bàn tay to bè, làn da ngăm đen, sần sùi thô ráp, những nếp nhăn xô lại với nhau thành những kẽ nứt trên khuôn mặt có phần hơi khắc khổ vì gió sương cuộc đời. Ông tôi đặc biệt yêu thích cây, quanh nhà có một khu vườn mênh mông, gần như gom hết đủ thứ cây cỏ trên đời này: Từ cây cảnh đến cây ăn quả. Hồi bé, tôi chỉ thích về quê nội chơi, ăn no nên quả thơm trái ngọt, hay lừa lừ lúc ông không để ý mà vặt trộm bông hóa hiếm hoi của cây hoa cảnh, làm ông tiếc ngẩn ngơ.
Ông có thói quen ra vườn và nghe cây. Ông cứ đứng đó, giữa vườn cây, nhắm mắt, nghe cái âm thành xào xạc, ngửi mùi đất hăng nồng, mùi nhựa cây chan chát. Ông tôi hay bịt mắt tôi giữa vườn caay, ông dạy tôi cách lắng nghe: Tiếng chim hót, tiếng ve, tiếng dế, tiếng là cây xào xạo khua lên những bản nhạc yên bình thôn dã. Không chỉ nghe, tôi còn cảm nhận nhiều hơn nữa từ thiên nhiên: Cái mát lành của gió mơn man, cái ran rát của nắng hè trên da, mùi đất, mùi nồng nồng của những con mưa hè vội vã… Ông tôi gọi cái giây phút tĩnh lặng đứng giữa vườn cây đó là “cảm nhận sự sống”.
Người già thường luôn có linh cảm về những giây phút cuối cùng của đời người. Một chiều, ông dần tôi ra vườn. Ông chỉ những chiếc alf vàng bay bay, nói “Đó là ông.” Ông chỉ những chiếc lá xanh non mỡ mang vẫn con trên cây “Đó là cháu”. Tôi hỏi tại sao. “Bởi một chiếc là bao giờ cũng phải tuân theo quy luật của tự nhiên. Muốn co lá xanh, lá vàng phải rụng. Lá xanh góp cái tươi non cho đời, rồi lại trở thành lá vàng. Con người cũng thế, hãy sống hết mình khi cháu hãy còn xanh, cháu nhé!” Thưở ấy tôi còn bé quá, chưa hiểu triết lỹ gì sâu xa, chỉ thấy đôi mắt ông buồn buồn, cảnh vật dường như cũng ảo não theo. Những chiếc lá không còn cháy lên sắc vàng mật ngọt, chỉ còn một màu héo úa lặng lẽ bay.
Tôi rời xa ông, thoe bố mẹ ra thành phố. Chuyện học hành, thi cử cuốn tôi đi, khiến cho những phút “cảm nhận sự sống” kia dường như xa lắm. Mọi thứ sang trọng, tiện nghi của cuộc sống thay thế cho cái dân dã, yên bình của thôn quê. Tôi quên ông như quên đi vườn cây, quên đi lá vàng…. Chiều chiều, khi những cánh chim bay về tổ ấm, những áng mây tìm chỗ trú ngụ bình yên nơi cuối trời, ông lặng lẽ thổi cơm. Lùa trệu trạo vào cái rau, con cá cho qua bữa, ông hay thẫn thờ nhìn ảnh bà tôi, thắp vài nén hương “Bà trên trời có linh phù hộ cho chúng nó làm ăn phát đạt, con cháu hay ăn chóng lớn”. Đắp chiếc chăn mỏng, tấm lưng to bè của ông rùng mình theo từng cơn gió lùa qua cửa sổ. “Đông về rồi đấy”, ông lẩm nhẩm, và trong căn nhà lạnh lẽo này, mùa đông cũng dài hơn.
Gia đình tôi có hiềm khích. Các chú dì đòi bán khu vườn của ông, lấy tiền đi làm kinh tế. Ông giận dữ “Khu vườn này của mẹ chúng mày, không được bán” Nhưng, chuyện người lớn, tôi cũng không thể tham gia, và dần dần quên đi.
Vì lo lắng cho việc này, sức khỏe của ông giảm sút rõ rệt. Tôi đến thăm ông, nhắc ông giữa gìn sức khỏe rồi lại vội vàng đi ngay. Khu vườn vaanx xào xạc như nuối tiếc vẫy chào tôi. Để ý thấy, từ khi ông ngã bệnh, khu vườn thiếu bàn tay ông chăm sóc, xơ xác đi. Lá vàng rụng nhiều hơn, như đời người sắp tàn.
Nhẹ nhàng và thanh thản, ông tôi ra đi, như chiếc lá lìa cành. Ngày đưa tang ông, trời mưa nhẹ. Tôi tưởng tượng ra rằng, vào những giây phút cuối, ông nghĩ đến hình ảnh một khu vườn xanh mướt ngập tiếng chim, tiếng cưởi trong trẻo của tôi, nụ cười hiền hâu của bà. Tôi bỗng tahays hụt hẫng quá, từ trước đến giớ, dường như tôi đã quên mất cái gì quan trọng lắm. Để bây giờ, khi ông ra đi, tôi mới thấy mất amts vô cùng, không có gì cứu vãn nổi. Nước mắt tôi cứ tự trò ra từ lúc nào không hay. Nhưng, chạy ra vườn, những đám lá vẫn xào xạc như vỗ về, ánh nắng, tiếng chim , lá cây … vẫn hiền hòa như thưở bé, tất cả như bao dung tha thứu. VÀ đâu đó, trên vòm cây cao kia, dường như vẫn còn vương nụ cười hiền hậu của ông dành cho tôi, Tôi bất chợt thấy nhẹ nhõm, và bao phút giấy “Cảm nhận sự sống” xưa vẫn còn nguyên vẹn ùa về.
Đời người như chiếc lá. Thà huy hoàng chợt tắt còn hơn le lói trăm năm, như một thi sĩ nào đã nói. Trời thu xanh ngắt, lồng lộng. Biết đâu, ở trên cao kia, ông vẫn đang dõi theo tôi, mỉm cười.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment