Soạn bài Văn bản văn học trang 117 – 123 SGK ngữ văn lớp 10 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Văn bản văn học, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
Hướng dẫn soạn bài – Văn bản văn học
I. TIÊU CHÍ CHỦ YẾU CỦA VĂN BẢN VĂN HỌC
Ta chưa bàn đến những tiêu chí chung nhất, nghiêm ngặt nhất cho tất cả văn bản văn học của mọi thời đại, mọi quốc gia. Ngày nay, nói chung, đa số nhận diện một văn bản văn học theo các tiêu chí sau:
1. Văn bản văn học (truyện cổ tích, bài thơ, cuốn tiểu thuyết, thiên bút kí, vở kịch,…) là những văn bản đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và khám phá thế giới tình cảm và tư tưởng, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Những chủ đề như tình yêu, hạnh phúc, băn khoăn đau khổ, khát vọng vươn đến chân – thiện – mĩ,… thường trở đi trở lại với những chiều sâu và sắc thái khác nhau trong văn bản văn học.
2. Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao. Nó không trần trụi, bộc trực, đơn nghĩa. Sử dụng nhiều phép tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng,…), văn bản văn học thường hàm súc, gợi lên nhiều liên tưởng, tưởng tượng. Văn bản nào cũng phải có ý nghĩa. Văn bản văn học cũng vậy. Nhưng khi xác định một văn bản văn học phải chú ý đến phẩm chất của ngôn từ diễn đạt.
Có những văn bản lúc ra đời nhằm những mục đích thực tiễn, về sau lại được xem là văn bản văn học, khi ý nghĩa cao sâu đã hài hòa với cách diễn đạt hoàn hảo, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của người đọc.
3. Văn bản văn học được xây dựng theo một phương thức riêng – nói cụ thể hơn là mỗi văn bản văn học đều thuộc về một thể loại nhất định, và theo những quy ước, cách thức của thể loại đó. Kịch bản có hồi, có cảnh, có lời đối thoại, độc thoại,… Thơ thì có vần điệu, luật, có câu thơ, khổ thơ,… Truyện lại có những quy ước về xây dựng nhân vật, kết cấu cốt truyện, các loại lời văn,…
Tuy vậy, văn bản văn học không chỉ là những biện pháp, những kĩ xảo ngôn từ mà là một sáng tạo tinh thần của nhà văn. Tư tưởng, tình cảm, những trải nghiệm trường đời sâu sắc là điều không thể thiếu trong những tác phẩm lớn. Và nếu không có tư tưởng, tình cảm đúng, không đồng cảm với niềm vui và nỗi đau của con người, người đọc cũng khó có thể hiểu được cái hay cái đẹp của văn bản văn học.
II. CẤU TRÚC CỦA VĂN BẢN VĂN HỌC
Cấu trúc của văn bản văn học mang nhiều tầng lớp, ta cần tìm hiểu để có thể tiếp nhận được cái hay cái đẹp của nó.
Nhìn chung, cần chú ý đến các tầng, lớp sau đây khi tiếp cận một văn bản văn học:
1. Tầng ngôn ngữ – từ ngữ âm đến ngữ nghĩa
Đọc văn bản, ta phải hiểu rõ ngữ nghĩa của từ, từ nghĩa tường minh đến hàm nghĩa, từ nghĩa đen đến nghĩa bóng (ví dụ: con chó sói, lòng lang dạ sói; mùa xuân, tuổi xuân; ngôi sao đêm, ngôi sao điện ảnh,…). Cùng với ngữ nghĩa phải chú ý đến ngữ âm
Ví dụ:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Những câu bốn chữ, những từ láy liên tiếp: loắt choắt, thoăn thoắt, xinh xinh, nghênh nghênh với âm thanh của nó cũng gợi lên một cái gì nhanh nhẹn, tươi trẻ.
Tầng ngôn từ là bước thứ nhất cần phải vượt qua để đi vào chiều sâu của văn bản.
2. Tầng hình tượng
Hình tượng được sáng tạo trong văn bản nhờ những chi tiết, cốt truyện, nhân vật, hoàn cảnh, tâm trạng (tùy quy mô văn bản: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài,… và tùy thể loại: tự sự, trữ tình, kịch,…) mà có sự khác nhau.
Lấy một văn bản gọn nhỏ như bốn câu ca dao sau đây làm ví dụ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Tác giả dùng hình tượng, màu sắc, hương vị để nói lên ý của mình. Câu 2, 3 tưởng như trùng lặp, nhưng đó là sự quan sát từ ngoài vào trong (lá xanh, bông trắng, nhị vàng), rồi lại quan sát từ trong ra ngoài (nhị vàng, bông trắng, lá xanh). Nhờ sự quan sát kĩ càng từ nhiều phía nên câu kết càng có sức nặng, từ hình tượng hoa sen đó, ta suy ra hàm nghĩa của bài.
Cành mai trong thơ của thiền sư Mãn Giác:
Đừng tưởng hoa tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai.
hoặc cây tùng trong thơ Nguyễn Trãi:
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông.
Lâm tuyền ai rặng già làm khách,
Tài đống lương cao ắt cả dùng.
không nhằm nói về cây mai, cây tùng, mà chính là muốn xây dựng nên những hình tượng để gửi gắm tình ý với cuộc đời.
3. Tầng hàm nghĩa
Khi gặp một người, điều dễ thấy là gương mặt, hình dáng bên ngoài. Dần dần qua tiếp xúc ta mới hiểu chiều sâu ẩn kín trong tâm hồn của họ. Đọc tác phẩm văn học cũng vậy: từ tầng ngôn ngữ đến tầng hình tượng, dần dần ta tìm ra tầng hàm nghĩa (ý nghãi ẩn kín, ý nghĩa tiềm tàng) của văn bản.
Có tìm ra hàm nghĩa ta mới hiểu được những điều nhà văn muốn tâm sự, những thể nghiệm về cuộc sống, những quan niệm về đạo đức xã hội, những hoài bão,… Đó là những “tấc lòng” mà nhà văn muốn kí thác cho đời.
Bài ca dao Trong đầm gì đẹp bằng sen không chỉ nói về hoa sen. Từ hình tượng hoa sen đẹp và thơm giữa bùn lầy, người nghệ sĩ dân gian ca ngợi chí khí giữ vững sự trong sạch của con người. Thói thường khi nói về những khiếm khuyết trong tính cách, người ta thường đổ lỗi cho hoàn cảnh. Thật ra, những người có bản lĩnh vẫn giữ được phẩm chất của mình trong môi trường không thuận lợi. Bài Cáo tật thị chúng (Cáo bệnh, bảo mọi người) có câu:
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai.
Tác giả không chỉ kể về một sự thật. Hình ảnh hoa rụng hoa nở nói về sự sống tuần hoàn bất diệt. Đó là cái nhìn bình thản yêu đời của người hiểu rõ quy luật, nắm vững chân lí.
Khi nghiền ngẫm hàm nghĩa của bải văn, bài thơ là lúc ta nâng cao tâm hồn mình, làm cho cuộc sống nội tâm trở nên sâu sắc, phong phú hơn.
Để đi sâu vào hàm nghĩa của văn bản văn học, ta cần đi qua các lớp: đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng chủ đạo,… Điều này sẽ nói ở bài sau.
III. TỪ VĂN BẢN ĐẾN TÁC PHẨM VĂN HỌC
Nhà văn sáng tác ra văn bản văn học. Đó là một hệ thống kí hiệu tồn tại khách quan. Khi nằm im trên giá sách, văn bản là một tập giấy có chữ, chưa thể nói đến tác động của nó đối với xã hội. Chỉ có thông qua việc đọc, hệ thống kí hiệu ấy mới hiện lên trong tâm trí người đọc những sự việc, những hình tượng nhân vật, những suy nghĩ vui buồn của con người và cuộc đời. Và những giá trị văn học vốn tiềm ẩn trong văn bản sẽ được người đọc tiếp nhận. Như nốt nhạc được xướng lên, văn bản văn học lúc đó mới thực sự phát huy chức năng của tác phẩm văn học. Người đọc càng trải nghiệm sâu sắc cuộc sống, càng hiểu biết thấu đáo quy luật nghệ thuật, nội dung tác phẩm càng hiện lên đầy đủ hơn, phong phú hơn trong tâm trí. Bấy giờ mới có thể nói đến tác động của tác phẩm với con người, với cuộc đời.
Giải câu 1 – (Trang 121 SGK ngữ văn 10 tập 2)
Hãy nêu những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học.
Trả lời:
– Văn bản văn học là những văn bản đi sâu phản ánh và khám phá thế giới, tình cảm, tư tưởng và thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
– Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao, rất giàu hàm nghĩa và gợi nhiều liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc.
– Văn bản văn học bao giờ cũng thuộc về một thể loại nhất định với những quy ước riêng, những cách thức riêng của thể loại đó.
Giải câu 2 – (Trang 121 SGK ngữ văn 10 tập 2)
Vì sao nói: hiểu tầng ngôn ngữ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học?
Trả lời:
Trong một tác phẩm văn học, bao giờ nhà văn cũng gửi gắm những tư tưởng, tình cảm và thái độ của mình trước cuộc đời thông qua hình tượng. Mà hình tượng nghệ thuật của tác phẩm chính lại được hình thành từ sự khái quát của lớp nghĩa ngôn từ. Vì thế rõ ràng nếu mới chỉ hiểu tầng ngôn từ mà chưa biết tổng hợp nên ý nghĩa của hình tượng, chưa hiểu các ý nghĩa hàm ẩn của văn bản thì chưa thể coi là đã nắm được nội dung tác phẩm.
Giải câu 3 – (Trang 121 SGK ngữ văn 10 tập 2)
Phân tích ý nghĩa một hình tượng mà anh (chị) yêu thích trong một bài thơ, hoặc đoạn thơ ngắn.
Trả lời:
Hàm nghĩa của văn bản văn học là những lớp nghĩa ẩn kín, tiềm tàng của văn bản được gửi gắm trong hình tượng. Ví dụ trong câu ca dao:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Khi chàng trai nói đến chuyện tre, đan sàng thì câu ca dao không chỉ mang ý nghĩa tả thực như vậy. Nó còn mang ý nghĩa chỉ chuyện tình yêu nam nữ, chỉ chuyện ướm hỏi, chuyện cưới xin.
Giải câu 4 – (Trang 121 SGK ngữ văn 10 tập 2)
Hàm nghĩa của văn bản văn học là gì? Cho ví dụ cụ thể.
Trả lời:
– Hàm nghĩa của văn bản văn học là khả năng gợi ra nhiều lớp ý nghĩa tiềm tàng, ẩn kín của văn bản văn học mà qua quá trình tiếp cận, người đọc dần dần nhận ra.
– Muốn nhận ra hàm nghĩa của văn bản văn học, người đọc cần đi qua các lớp: đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo ,…
– Hàm nghĩa của văn bản văn học không phải lúc nào cũng dễ hiểu và không phải lúc nào cũng hiểu đúng và hiểu đủ.
Ví dụ:
– Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương mới đọc qua tưởng chỉ là chuyện của chiếc bánh trôi, từ đặc điểm đến các cung đoạn làm bánh. Nhưng hàm chứa trong đề tài bánh trôi là cảm hứng về cuộc đời và thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Người phụ nữ than thân trách phận nhưng không dừng lại ở đó, còn khẳng định vẻ đẹp của mình và lên tiếng phê phán xã hội bất công, vô nhân đạo.
– Truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu bao hàm nhiều ý nghĩa triết lí về con người và cuộc đời thông qua rất nhiều những nghịch lí:
+ Trong đời mỗi con người, có nhiều chuyện mà ta không lường trước được, không tính hết được bởi có những việc xảy ra ngoài ý muốn (Nhĩ, nhân vật chính của truyện, đã từng đi khắp nơi, cuối đời bị căn bệnh quái ác phải nằm liệt giường).
+ Con người, đôi khi vì những “vòng vèo, chùng chình” đã không thể đến được nơi mà mình cần đến, mặc dù nơi ấy ở ngay trước mặt (Nhĩ đã không thể sang được bãi bồi bên kia sông, ngay trước nhà mình).
+ Đôi khi, người ta cứ mải mê đi tìm những giá trị ảo tưởng trong khi có những giá trị quen thuộc, gần gũi mà bền vững thì lại bỏ qua để khi nhận ra thì quá muộn (khi nằm liệt giường, Nhĩ mới nhận ra vẻ đẹp của “Bến quê”, vẻ đẹp của người vợ tảo tần sống gần trọn đời với mình).
+ Hãy biết trân trọng cuộc sống, trân trọng những gì thuộc về “Bến quê”, đó là bức thông điệp mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến mọi người thông qua những triết lí giản dị mà sâu sắc của tác phẩm.
IV. Luyện tập
Giải câu hỏi – Luyện tập (Trang 121 – 123 SGK ngữ văn 10 tập 2)
Đọc các văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới.
(1) NƠI DỰA
Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia?
Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào…
Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.
Và cái miệng nhỏ líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có.
Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống.
Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia?
Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết.
Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run rẩy.
Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời.
Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách.
(Nguyễn Đình Thi, Tia nắng, NXB Văn học, Hà Nội, 1983)
a) Hãy tìm hai đoạn có cấu trúc (cách tổ chức) câu, hình tượng tương tự nhau của bài Nơi dựa.
b) Những hình tượng (người đàn bà – em bé, người chiến sĩ – bà cụ già) gợi lên những suy nghĩ gì về nơi dựa trong cuộc sống?
(2) THỜI GIAN
Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỉ niệm trong tôi
Rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước.
(Văn Cao, Lá, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1998)
a) Theo anh (chị), các câu sau đây hàm chứa ý nghĩa gì?
– Kỉ niệm trong tôi
Rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
– Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
(đối sánh với hai câu mở đầu của bài, chú ý từ xanh)
– Và đôi mắt em
như hai giếng nước.
b) Qua bài Thời gian, Văn Cao định nói lên điều gì?
(3) MÌNH VÀ TA
Mình là ta đấy thôi, ta vẫn gửi cho mình,
Sâu thẳm mình ư? Lại là ta đấy!
Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy,
Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành.
(Chế Lan Viên, Ta gửi cho mình, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986)
a) Giải thích rõ quan niệm của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta) ở các câu 1, 2.
b) Nói rõ quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc ở các câu 3, 4.
Trả lời:
1. Văn bản “Nơi dựa”:
a) Hai đoạn gần như đối xứng nhau về cấu trúc câu: mở bài – kết bài.
b) Hình tượng nhân vật được trình bày cốt làm nổi bật tính tương phản:
+ Người mẹ trẻ: dựa vào đứa con mới chập chững biết đi.
+ Anh bộ đội: dựa vào cụ già bước run rẩy không vững.
=> Gợi suy ngẫm về “nơi dựa” – chỗ dựa tinh thần – tìm thấy niềm vui, ý nghĩa của cuộc sống.
2. Bài “Thời gian”:
a) Bố cục:
Đoạn 1 (bốn câu thơ đầu): sức tàn phá của thời gian.
Đoạn 2 (còn lại): những giá trị bền vững tồn tại mãi với thời gian.
– Thời gian trôi chảy từ từ, nhẹ, im, tưởng như yếu ớt “thời gian qua kẽ tay”, thời gian “làm khô những chiếc lá”. “Chiếc lá” là một hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng. Chiếc lá hay chính là những mảnh đời đang trôi đi theo nhịp thời gian? Những chiếc lá khô hay chính là những cuộc đời không thể tránh khỏi vòng sinh diệt? Những chiếc lá khô, những cuộc đời ngắn ngủi và những kỉ niệm của đời người cũng sẽ bị rơi vào quên lãng (hòn sỏi rơi vào lòng giếng cạn đầy bùn cát thì chẳng có tiếng vang gì cả). Như thế cuộc đời và những kỉ niệm đều tàn tạ, đều bị thời gian xóa nhòa.
– Thế nhưng trong cuộc sống vẫn có những điều tồn tại mãnh liệt với thời gian, đó là: “Riêng những câu thơ còn xanh/ Riêng những bài hát còn xanh” . Đó là nghệ thuật khi đã đạt đến độ kết tinh xuất sắc sẽ tươi xanh mãi mãi, bất chấp thời gian, như Truyện Kiều chẳng hạn.
– Câu kết thật bất ngờ: “Và đôi mắt em/ như hai giếng nước”. Dĩ nhiên đây là “hai giếng nước” chứa đầy những kỉ niệm tình yêu, những kỉ niệm tình yêu sống mãi, đối lập với những kỉ niệm “rơi” vào “lòng giếng cạn” quên lãng của thời gian.
b) Qua bài thơ “Thời gian”, Văn Cao muốn nói rằng: thời gian có thể xoá nhoà tất cả, chỉ có văn học nghệ thuật và tình yêu là có sức sống lâu bền.
3. Văn bản “Mình và ta”:
Văn bản là một bài tứ tuyệt đặc sác của nhà thơ chế Lan Viên rút trong tập Ta gửi cho mình. Bài thơ đề cập đến những vấn đề lí luận của thi ca, của văn học nghệ thuật.
a) Hai câu đầu:
Mình là ta đấy thôi, ta vẫn gửi cho mình.
Sâu thắm mình ư? Lại là ta đẩy!
Hai câu thơ thể hiện quan niệm sâu sắc của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta). Trong quá trình sáng tạo, nhà văn luôn có sự đồng cảm với bạn đọc cũng như trong quá trình tiếp nhận tác phẩm, bạn đọc luôn có sự đồng cảm với nhà văn. Sự đồng cảm phải có được nơi tận cùng “sâu thắm” thì tác phẩm mới thực sự là tiếng nói chung, là nơi gặp gỡ của tâm hồn, tình cảm con người.
b. Hai câu sau là quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc:
Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy,
Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành.
Nhà văn viết tác phẩm văn học là sáng tạo nghệ thuật theo những đặc trưng riêng. Những điều nhà văn muốn nói đều đã được gửi gắm vào hình tượng nghệ thuật và nghệ thuật chỉ có giá trị gợi mở chứ không bao giờ nói hết, nói rõ. Người đọc phải tái tạo lại, tưởng tượng thêm, suy ngẫm, phân tích để sao cho từ bếp “tro” tưởng như tàn lại có thể “nhen thành lửa cháy”, từ “viên đá con” có thể dựng nên thành, nên luỹ, nên những lâu đài, cung điện nguy nga.
Quan niệm trên của Chế Lan Viên đã được nhà thơ phát biểu theo cách của thơ và đó cũng là một minh chứng cho quan niệm của chính nhà thơ.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Văn bản văn học
Câu 1. Hãy nêu những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học.
Trả lời:
Những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học
– Văn bản văn học đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và khám phá thế giới tình cảm và tư tưởng, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
– Văn bản văn học xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao.
– Mỗi văn bản văn học thuộc về một thể loại nhất định và theo những quy ước, cách thức của thể loại đó.
Câu 2. Vì sao nói: hiểu tầng ngôn ngữ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học?
Trả lời:
Bởi vì văn học là nghệ thuật ngôn từ, nên khi đọc văn bản văn học, trước hết phải hiểu rõ nghĩa của từ, từ tường mình đếm hàm ẩn, nghĩa đen và cả nghĩa bóng. Tìm hiểu tầng ngôn từ là cơ sở để bóc tách tầng hình tượng và hàm nghĩa của văn bản. Vì thế, hiểu tầng ngôn từ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học.
Câu 3. Phân tích ý nghĩa một hình tượng mà anh (chị) yêu thích trong một bài thơ, hoặc đoạn thơ ngắn.
Trả lời:
– Trước hết, cần nắm vững đặc trưng hình tượng trong thơ, sau đó thông qua tìm hiểu lớp ngôn từ để đi sâu tìm hiểu hình tượng thơ.
– Nên chọn hình tượng văn học đã được học và tìm hiểu trong chương trình đã học.
– Ví dụ minh họa:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
+ Hình tượng nhân vật trữ tình được khắc họa qua hình ảnh chiếc bánh trôi.
+ Tác giả dùng hình ảnh và những ngôn từ miêu tả chiếc bánh trôi để nói lên suy nghĩ của mình. Bốn câu thơ là sự quan sát của Hồ Xuân Hương cả về màu sắc (trắng), hình dáng (tròn) và cách làm (bảy nổi ba chìm, rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,…).
⇒ Hình tượng thơ vừa miêu tả và trình bày cách làm một chiếc bánh trôi lại vừa là lời than thở cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Câu 4. Hàm nghĩa của văn bản văn học là gì? Cho ví dụ cụ thể.
Trả lời:
– Hàm ý của văn bản văn học là những điều mà nhà văn muốn tâm sự, những thể nghiệm về cuộc sống, những quan niệm về đạo đức xã hội, những hoài bão,…
– Ví dụ: Trong câu thơ:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Ở đây, tác giả không chỉ thuyết minh về cách làm bánh trôi mà còn nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa bị phụ thuộc vào bàn tay kẻ khác, số phận có tốt đẹp hay khổ đau là do “tay kẻ nặn”; dẫu vậy, những người phụ nữ ấy vẫn giữ được tấm lòng son sắt, chung thủy.
Luyện tập
Câu hỏi:
Đọc các văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới.
(1) NƠI DỰA
Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia?
Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào…
Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.
Và cái miệng nhỏ líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có.
Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống.
Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia?
Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết.
Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run rẩy.
Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời.
Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách.
(Nguyễn Đình Thi, Tia nắng, NXB Văn học, Hà Nội, 1983)
a) Hãy tìm hai đoạn có cấu trúc (cách tổ chức) câu, hình tượng tương tự nhau của bài Nơi dựa.
b) Những hình tượng (người đàn bà – em bé, người chiến sĩ – bà cụ già) gợi lên những suy nghĩ gì về nơi dựa trong cuộc sống?
(2) THỜI GIAN
Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỉ niệm trong tôi
Rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước.
(Văn Cao, Lá, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1998)
a) Theo anh (chị), các câu sau đây hàm chứa ý nghĩa gì?
– Kỉ niệm trong tôi
Rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
– Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
(đối sánh với hai câu mở đầu của bài, chú ý từ xanh)
– Và đôi mắt em
như hai giếng nước.
b) Qua bài Thời gian, Văn Cao định nói lên điều gì?
(3) MÌNH VÀ TA
Mình là ta đấy thôi, ta vẫn gửi cho mình,
Sâu thẳm mình ư? Lại là ta đấy!
Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy,
Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành.
(Chế Lan Viên, Ta gửi cho mình, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986)
a) Giải thích rõ quan niệm của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta) ở các câu 1, 2.
b) Nói rõ quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc ở các câu 3, 4.
Trả lời:
* Văn bản (1): Văn bản Nơi dựa
a) Hãy tìm hai đoạn có cấu trúc (cách tổ chức) câu, hình tượng tương tự nhau của bài Nơi dựa.
– Văn bản chia thành hai đoạn có cấu trúc câu và hình tượng tương tự nhau:
+ Câu mở đầu và câu kết của mỗi đoạn có cấu trúc giống nhau.
+ Mỗi đoạn có hai hình tượng nhân vật có những đặc điểm tương tự nhau:
Đoạn 1: người đàn bà và đứa nhỏ
Đoạn 2: người chiến sĩ và bà cụ
b) Những hình tượng (người đàn bà – em bé, người chiến sĩ – bà cụ già) gợi lên những suy nghĩ gì về nơi dựa trong cuộc sống?
– Những hình tượng trên đều gợi lên nhiều suy nghĩ về nơi giữa trong cuộc sống:
+ Người đàn bà tưởng chừng là chỗ dựa cho đứa nhỏ nhưng chính sự hồn nhiên của nó mới chính là chỗ dựa cho người đàn bà ấy.
+ Người chiến sĩ khỏe mạnh tưởng sẽ là chỗ dựa cho bà cụ nhưng chính bà cụ mới là người vỗ về, làm chỗ dựa cho anh chiến sĩ kia.
⇒ Theo logic thì những người khỏe mạnh mới là chỗ dựa cho những người yếu hơn. Nhưng logic trong đoạn thơ này là logic về tinh thần, theo đó những con người nhỏ bé mới là chỗ dựa tinh thần cho những người mạnh khỏe, to lớn.
* Văn bản (2): Văn bản Thời gian
a) Theo anh (chị), các câu sau đây hàm chứa ý nghĩa gì?
– Kỷ niệm trong tôi
Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn
– Câu thơ thuộc đoạn một của văn bản, nói lên sức mạnh tàn phá của thời gian.
– Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh
– Câu thơ thuộc đoạn hai của văn bản, nói về những giá trị tồn tại mãi với thời gian.
⇒ ai cũng hiểu quy luật tàn phá của thời gian, nhưng không ai có thể làm cho mình bất tử với thời gian. Thế nhưng vẫn có những giá trị tồn tài mãi mãi với thời gian, đó chính là những giá trị về thơ ca và âm nhạc. Từ “xanh” trong câu thơ trên như “chọi” lại với từ “khô” trong hai câu mở đầu.
– Và đôi mắt em như hai giếng nước.
– Đôi mắt em như hai giếng nước, là hai giếng nước chứa chan những kỉ niệm tình yêu, những kí ức sống mãi, đối lập với những kỉ niệm đã “rơi” và “lòng giếng cạn”.
b) Qua bài Thời gian, Văn Cao định nói lên điều gì?
Qua bài Thời gian, Văn Cao muốn nói rằng thời gian có thể xóa nhòa tất cả, chỉ có nghệ thuật và tình yêu là còn sống mãi với thời gian.
* Văn bản (3): Văn bản Mình và ta
a) Giải thích rõ quan niệm của Chế lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta) ở câu 1, 2.
Hai câu thơ thể hiện quan niệm sâu sắc của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc và nhà văn. Trong quá trình sáng tạo, nhà văn đồng cảm với bạn đọc, còn bạn đọc đồng cảm với nhà văn trong quá trình tiếp nhận. Sự đồng cảm phải từ tận cùng “sâu thẳm” mới có thể có sự đồng điệu trong tâm hồn được.
b) Nói rõ quan điểm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc ở các câu 3, 4.
Quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học: nhà văn viết tác phẩm là sáng tạo nghệ thuật theo những đặc trưng riêng. Tâm tư của nhà văn gửi gắm vào các hình tượng nghệ thuật, nhưng hình tượng chỉ có giá trị gợi mở chứ không nói hết ý của nhà văn. Người đọc phải tái tạo lại, tưởng tượng thêm và suy ngẫm, phân tích để từ “tro” tàn “nhen thành lửa cháy”, từ “viên đá con” có thể “dựng lại nên thành”.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment