Soạn bài Thuý Kiều báo ân báo oán (trích Truyện Kiều) trang 106 – 109 SGK ngữ văn lớp 9 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Thuý Kiều báo ân báo oán (trích Truyện Kiều), sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
THUÝ KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN
(Trích Truyện Kiều)
Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run(1).
Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non”,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm thương(2) chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tại lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.
[…] Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khâu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà ,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh(3),
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chông chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phai lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá(4) thì nên”.
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều, Sđd)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở cuối phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi chịu bao đau khổ, tủi nhục, đoạ đày, Thúy Kiều được Từ hải cứu thoát khỏi lầu xanh và giúp nàng đền ơn trả oán. Đây là đoạn trích tả cảnh Thuý Kiều báo ân báo oán.
(1) Dẽ run: người run lên như chim dẽ (có khi viết là giẽ hoặc rẽ), vì chim dẽ có cái đuôi luôn phay phảy như run.
(2) Sâm Thương: chính là sao Kim, một hành tinh trong hệ mặt trời, nhưng người xưa cho là hai ngôi sao, một ngôi mọc ở phía đông, một ngôi ở phía tây, sao này mọc, sao kia lặn. Dùng Sâm Thương là để chỉ sự cách biệt không bao giờ gặp nhau.
(3) Gác Quan Âm ở nhà Hoạn Thư, nơi Hoạn Thư để cho Kiều ra đó viết kinh.
(4) Tri quá: biết lỗi.
Hướng dẫn soạn bài – Thuý Kiều báo ân báo oán
I. Bố cục:
– Phần 1 (mười hai câu thơ đầu): cảnh Thúy Kiều báo ân cho Thúc Sinh.
– Phần 2 (hai mươi hai câu thơ còn lại): Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư.
II. Hướng dẫn soạn bài Thuý Kiều báo ân báo oán chi tiết.
Giải câu 1 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Mười hai câu đầu tả cảnh Thúy kiều báo ân (trả ơn).
– Qua lời của Kiều nói với Thúc Sinh, em thấy Kiều là người như thế nào?
– Tại sao khi trả ơn Thúc Sinh, Kiều lại nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư? Có sự khác nhau như thế nào trong ngôn ngữ của Kiều khi nói với Thúc Sinh và khi nói về Hoạn Thư? (Chú ý những từ Hán Việt, từ ngữ mang tính ước lệ khi nói với Thúc Sinh; ngôn ngữ nôm na bình dị, những thành ngữ dân gian khi nói về Hoạn Thư.) Vì sao có sự khác nhau ấy?
Trả lời:
Mười hai câu đầu đoạn trích tả cảnh Thúy Kiều báo ân. Từ lời của Kiều nói với Thúc Sinh có thể thấy nàng rất trân trọng việc Thúc Sinh chuộc nàng khỏi lầu xanh. Nàng gọi Thúc Sinh là “Người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi, rồi lại gọi là “cổ nhân” mang sắc thái trang trọng. Với nàng dù có “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa dễ xứng với ơn nghĩa nặng của Thúc Sinh. Trong khi nói với Thúc Sinh. Kiều cũng nhắc về Hoạn Thư. Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa. Có sự khác nhau trong ngôn ngữ của Kiều nói với Thúc Sinh, Kiều dùng nhiều từ điển cố “Sâm Thương” cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều. Còn lúc nói về Hoạn Thư, ngôn ngữ của Kiều lại hết sức bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc “Kẻ cắp bà già gặp nhau”, “Kiến bỏ miệng chén” với những từ Việt dễ hiểu: hàng động trừng phạt kẻ ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Giải câu 2 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Những câu thơ còn lại tả cảnh Thúy Kiều báo oán.
– Những lời đầu tiên Kiều nói với Hoạn Thư có giọng điệu như thế nào? (Chú ý cách xưng hô của Kiều, cách nhắc lại đời xưa, đời này, mấy mặt, mấy gan, càng…, càng…).
– Thái độ của Kiều thể hiện qua giọng điệu ấy?
Trả lời:
Những lời đầu tiên của Kiều nói với Hoạn Thư có giọng điệu mỉa mai, đay nghiến:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”, cẩn thận báo cho mụ ta biết về “luật nhân quả” ở đời “càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”. Kiều tin chắc vào chiến thắng đến mức sẵn sàng chấp nhận đấu khẩu!
Giải câu 3 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Trước thái độ của Kiều, Hoạn thư đã xử trí ra sao? Lời kêu ca của Hoạn Thư thực chất là lí lẽ để gỡ tội. Em hãy tìm hiểu:
– Trình tự lí lẽ của Hoạn Thư.
– Các lí lẽ của Hoạn Thư đã tác động tới Kiều như thế nào?
– Qua lời đối đáp của Hoạn Thư, em có cảm nhận gì về tính cách của nhân vật này?
Trả lời:
Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng “Bề ngoài thơn thớt nói cười – Mà trong nham hiểm giết người không dao”:
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu
Khấu đầu dưới chiếu, liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình…”
Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn. Nếu quả thật đã “hồn lạc phách xiêu”, Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy. Không những khẳng định “ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà”, Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã “làm ơn” cho Thuý Kiều: cho ra nhà gác để viết kinh, khi Thuý Kiều trốn đã không đuổi bắt… Đó là những lí lẽ rất khôn ngoan mà Kiều khó lòng bác bỏ được. Thì ra, vẻ “hồn lạc phách xiêu” chỉ là bộ điệu mà mụ ta tạo ra để đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.
Giải câu 4 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Vì sao Thúy Kiều tha bổng Hoạn Thư? Việc làm ấy của Kiều hợp lí hay không hợp lí, là đúng hay đáng trách? Lí giải cách lựa chọn của em.
Những lời cuối cùng Kiều nói với Hoạn Thư cho thấy Kiều là người như thế nào?
Trả lời:
Rốt cuộc, người thua trong cuộc đấu trí, đấu khẩu đó lại chính là Thuý Kiều. Bằng chứng là khi nghe xong những lời “bào chữa” của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã xuôi lòng mà tha bổng cho mụ, không những thế lại còn khen: “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời” và tự nói với mình rằng: “Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen”.
Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lô gích của tác phẩm. Đoạn “báo ân” với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, nàng vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa. Một người phụ nữ như thế, thật khó có thể đối đầu được với một kẻ gian ngoan, quỷ quyệt như Hoạn Thư.
Giải câu 5 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Qua đoạn trích, phân tích tính cách Thuý Kiều và Hoạn Thư.
Trả lời:
Qua đoạn trích có thể thấy Thúy Kiều là người trọng ân nghĩa. Những ai đã giúp đỡ nàng đều được nhớ tới và đến ơn xứng đáng. Thúc Sinh là một ví dụ. Còn với Hoạn Thư, nàng kiên quyết trừng phạt. Nhưng trước thái độ khôn ngoan kêu ca “đến mực, phải lời”, Kiều đã tha bổng. Nàng tha Hoạn Thư cho thấy Kiều là người không hẹp hòi, không nhỏ nhen, không cố chấp. Sự rộng lượng của nàng càng làm cho người ta, kể cả Hoạn Thư – kẻ thù, phải tâm phục, khẩu phục.
Hoạn Thư là một người phụ nữ nham hiểm và hết mực khôn ngoan.
Soạn phần luyện tập bài Thuý Kiều báo ân báo oán
Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 109 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Phân tích những biểu hiện đa dạng nhưng hợp lí, nhất quán trong tính cách của Thúy Kiều và Hoạn Thư.
Trả lời:
Những biểu hiện đa dạng nhưng hợp lí, nhất quán trong tính cách của Thúy Kiều và Hoạn Thư.
+ Thúy Kiều:
→ Có yêu, có ghét rõ ràng, lúc thì rất ôn hòa, lúc lại rất cương quyết, cứng rắn: Nàng trả ơn đền nghĩa cho Thúc Sinh, ngược lại trừng phạt Hoạn Thư – người đã từng có tội với nàng.
→ Tuy nhiên, mọi hành động của Thúy Kiều đều dựa trên nguyên tắc đạo lý: nàng là người thấu hiểu đạo lý, nên mới đền ơn cho người đã cưu mang mình, đồng thời tha tội cho Hoạn Thư bởi nàng thấu hiểu cho phận đàn bà, ghen tuông là chuyện thường tình.
+ Hoạn Thư:
→ Trước sau Hoạn Thư đều là người khôn ngoan, mưu kế. Dù run sợ trước lời buộc tội của Kiều nhưng vẫn khôn khéo đưa ra được lời biện minh để thoát tội cho bản thân, lợi dụng lòng đồng cảm của Thúy Kiều: Về tình cảm riêng, tuy vẫn rất yêu quý tài năng của Thúy Kiều nhưng cảnh chồng chung thì ai nào chịu được, nên thói ghen tuông cũng là thường tình.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Thuý Kiều báo ân báo oán
I. Đọc hiểu văn bản
Câu 1. Mười hai câu đầu tả cảnh Thúy kiều báo ân (trả ơn).
– Qua lời của Kiều nói với Thúc Sinh, em thấy Kiều là người như thế nào?
– Tại sao khi trả ơn Thúc Sinh, Kiều lại nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư? Có sự khác nhau như thế nào trong ngôn ngữ của Kiều khi nói với Thúc Sinh và khi nói về Hoạn Thư? (Chú ý những từ Hán Việt, từ ngữ mang tính ước lệ khi nói với Thúc Sinh; ngôn ngữ nôm na bình dị, những thành ngữ dân gian khi nói về Hoạn Thư.) Vì sao có sự khác nhau ấy?
Trả lời:
* Qua những lời nói của Kiều với Thúc Sinh, cho thấy tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều đối với Thúc Sinh:
+ Kiều nhớ lại tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh khi Kiều gặp hoạn nạn: cứu nàng ra khỏi lầu xanh.
+ Gọi chàng là “cố nhân” để bày tỏ thái độ trân trọng.
+ Cho nàng thân phận làm lẽ dù đau đớn hơn kẻ tôi đòi.
+ Thúy Kiều đền ơn Thúc sinh “Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân”.
* Khi trả ơn Thúc Sinh, Kiều lại nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư cho thấy nỗi đau đớn xót xa của Kiều vì người đàn bà ấy đã gây ra cho nàng biết bao nhiêu tủi nhục, đau đớn. Kiều rất mong được gặp lại Hoạn Thư nên chen vào câu nói biết ơn tình nghĩa đối với Thúc Sinh.
– Nói với Thúc Sinh: dùng các từ Hán Việt: nghĩa, tòng, cố nhân, sử dụng điển cố sâm thương.
→ Ngôn ngữ nói với Thúc Sinh mang tính ước lệ thể hiện tấm lòng trân trọng, biết ơn của Kiều đối với Thúc Sinh.
– Nói với Hoạn Thư: dùng từ ngữ nôm na, những thành ngữ dân gian (kẻ cắp gặp bà già, kiến bò chén miệng…)
→ Ngôn ngữ đó cho thấy Kiều chuẩn bị báo án bằng hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân.
Câu 2. Những câu thơ còn lại tả cảnh Thúy Kiều báo oán.
– Những lời đầu tiên Kiều nói với Hoạn Thư có giọng điệu như thế nào? (Chú ý cách xưng hô của Kiều, cách nhắc lại đời xưa, đời này, mấy mặt, mấy gan, càng…, càng…).
– Thái độ của Kiều thể hiện qua giọng điệu ấy?
Trả lời:
Những lời đầu tiên Kiều nói với Hoạn Thư bằng giọng điệu mỉa mai, chì chiết, đay nghiến. Kiều vẫn gọi Hoạn Thư là tiểu thư, bắt về nhưng lại hỏi Hoạn Thư rằng cũng có bây giờ đến đây. Qua đó, chúng ta có thấy thái độ của Kiều là quyết tâm trừng phạt Hoạn Thư theo đúng quan niệm “mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.
Câu 3. Trước thái độ của Kiều, Hoạn thư đã xử trí ra sao? Lời kêu ca của Hoạn Thư thực chất là lí lẽ để gỡ tội. Em hãy tìm hiểu:
– Trình tự lí lẽ của Hoạn Thư.
– Các lí lẽ của Hoạn Thư đã tác động tới Kiều như thế nào?
– Qua lời đối đáp của Hoạn Thư, em có cảm nhận gì về tính cách của nhân vật này?
Trả lời:
* Khi nghe những lời luận tội và sự đe doạ của Kiều, Hoạn Thư “hồn lạc phách siêu” nhưng cô vẫn khôn ngoan và bình tĩnh đưa ra những lí lẽ thuyết phục Kiểu:
+ Đầu tiên Hoạn Thư dựa vào cớ “chút phận đàn bà” và đàn bà ghen tuông là chuyện bình thường.
+ Hoạn Thư khôn khéo nhắc lại những việc làm nhân nghĩa, mang ơn của mình với Kiều (cho Kiều viết kinh ở Quan Âm Các, không bắt giữ khi nàng bỏ trốn và mang theo chuông khánh bạc… )
+ Hoạn Thư vẫn nhận là kính yêu Kiều nhưng vì hạnh phúc không thể chung chồng nên mới gây ra tội lỗi.
+ Nhận tất cả những tội do mình gây ra nhưng quy đó là tội ghen tuông nhỏ mọn của người đàn bà.
+ Kêu gọi tình thương của Kiều dành cho mình.
* Trước những lí lẽ của Hoạn Thư, Kiều khâm phục tài trí và miệng lưỡi của Hoạn Thư, Kiều đứng trước sự phân vân, khó xử. Trị tội thì tàn nhẫn, không chút nể tình, nhỏ nhen, tha thì số Hoạn Thư thật là may “tha ra thì cũng… làm ra thì cũng”.
* Hoạn Thư là một người khôn ngoan, ranh ma, với trí thông minh và bản lĩnh của mình, nàng tự biến nguy thành an, hạ bớt sự căm giận của Kiều,buộc Kiều vào tình huống khó xử.
Câu 4. Vì sao Thúy Kiều tha bổng Hoạn Thư? Việc làm ấy của Kiều hợp lí hay không hợp lí, là đúng hay đáng trách? Lí giải cách lựa chọn của em.
Những lời cuối cùng Kiều nói với Hoạn Thư cho thấy Kiều là người như thế nào?
Trả lời:
Thúy Kiều tha bổng cho Hoạn Thư. Việc làm này của Kiều phù hợp với quan điểm của nhân dân ta “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại” hơn nữa trước những lí lẽ hoàn toàn hợp tình hợp lí của Hoạn Thư, Kiều trị tội Hoạn Thư thì lại hóa nhỏ nhen, độc ác. Qua đó, cũng thấy được sự bao dung, độ lượng, tấm lòng nhân ái, vị tha của Thúy Kiều.
Câu 5. Qua đoạn trích, phân tích tính cách Thuý Kiều và Hoạn Thư.
Trả lời:
Qua đoạn trích, chúng ta có thể thấy Kiều là một người biết đền ơn đáp nghĩa, Kiều tha bổng cho Hoạn Thư cũng chứng tỏ nàng là một người phụ nữ có tấm lòng nhân ái, bao dung.
Hoạn Thư là một người phụ nữ khôn ngoan, mưu mô, quỷ quyệt, biết biến nguy thành an cho bản thân.
Soạn phần luyện tập bài Thuý Kiều báo ân báo oán trang 109 SGK ngữ văn 9 tập 1
Câu 1. Phân tích những biểu hiện đa dạng nhưng hợp lí, nhất quán trong tính cách của Thúy Kiều và Hoạn Thư.
Trả lời:
Thúy Kiều và Hoạn Thư là hai nhân vật mang những nét tính cách trái ngược nhau. Nếu Thúy Kiều là một người có tấm lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, biết đền ơn đáp nghĩa thì Hoạn Thư lại là một người phụ nữ khôn ngoan, sảo trá, mưu mô, quỷ quyệt. Tuy vậy giữa họ lại mang những nét nhất quán cho số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, đó là cùng chung một thân phận – chung một người chồng. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Kiều tha cho Hoạn Thư một cách dễ dàng mà nàng hiểu được tình cảnh của Hoạn Thư khi phải chia sẻ chồng mình cho người phụ nữ khác. Qua đó, Nguyễn Du kín đáo tố cáo xã hội phong kiến gây ra những đau khổ cho người phụ nữ.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment