Soạn bài – Tập làm văn: Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối

Soạn bài Tập làm văn: Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối trang 52 – 53 SGK tiếng việt lớp 4 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Tập làm văn: Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

Hướng dẫn soạn bài – Tập làm văn: Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối

I. Nhận xét

Giải câu 1 (Trang 52 SGK tiếng việt 4 tập 2)

Đọc lại bài cây gạo của nhà văn Vũ Tú Nam (sách Tiếng Việt 4, tập hai, trang 32).

Trả lời:

Cây gạo

Cây gạo già mỗi năm lại trở lại tuổi xuân, cành nặng  trĩu những hoa đỏ mọng và đầy tiếng chim hót. Chỉ cần một làn gió nhẹ hay một đôi chim mới đến là có ngay mấy bông gạo lìa cành. Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống, những cánh hoa đỏ rực quay tít như chong chóng nom thật đẹp.

Hết mùa hoa, chim chóc cũng vãn. Cây gạo chấm dứt những ngày tưng bừng ồn ã, lại trở về với dáng vẻ xanh mát, trầm tư. Cây đứng im cao lớn, hiền lành, làm tiêu cho những con đò cập bến và cho những đứa con về thăm quê mẹ.

Ngày tháng đi thật chậm mà cũng thật nhanh. Những bông hoa đỏ ngày nào đã trở thành những quả gạo múp míp, hai đầu thon vút như con thoi. Sợi bông trong quả đầy dần, căng lên; những mảnh vỏ tách ra cho các múi bông nở đều, chín như nồi cơm chín đội vung mà cười, trắng lóa. Cây gạo như treo rung rinh hàng ngàn nồi cơm gạo mới.

Theo Vũ Tú Nam

Giải câu 2 (Trang 52 SGK tiếng việt 4 tập 2)

Tìm các đoạn trong bài văn nói trên.

Trả lời:

Bài Cây gạo có ba đoạn:

Đoạn 1: từ đầu đến “nom thật đẹp”.

Đoạn 2: từ “Hết mùa hoa” đến “thăm quê mẹ”.

Đoạn 3: từ “Ngày tháng đi” đến hết.

Giải câu 3 (Trang 52 SGK tiếng việt 4 tập 2)

Cho biết nội dung chính của mỗi đoạn văn là gì.

Trả lời:

Nội dung chính của mỗi đoạn:

Đoạn 1: Tác giả miêu tả hiện tượng cây gạo trổ hoa.

Đoạn 2: Tác giả tả cây gạo sau mùa hoa.

Đoạn 3: Tác giả tả cây gạo vào mùa kết trái và khi trái chín những mảnh vỏ tách ra cho các múi nở đều, trắng lóa.

II. Luyện tập

Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 53 SGK tiếng việt 4 tập 2)

Xác định các đoạn văn và nội dung chính của từng đoạn trong bài văn dưới đây:

Cây trám đen

Ở đầu bản tôi có mấy cây trám đen. Thân cây cao vút, thẳng như một cột nước từ trên trời rơi xuống. Cành cây mập mạp, nằm ngang, vươn tỏa như những gọng ô. Trên cái gọng ô ấy xòe tròn một chiếc ô xanh ngút ngát. Lá trám đen chỉ to bằng bàn tay đứa trẻ lên ba, nhưng dài chừng một gang.

Trám đen có hai loại. Quả trám đen tẻ chỉ bằng nửa quả nhót to, nhưng hai đầu nhọn hơn. Cùi trám đen tẻ mỏng, cứng, có phần hơi khô, xác, không ngon bằng trám đen nếp. Trám đen nếp cũng màu tím như trám đen tẻ, nhưng quả mập, mỡ màng, cùi dày, bấm ngập móng ngón tay cái mà không chạm hạt.

Cùi trám đen có chất béo, bùi và thơm. Trám đen rất ưa xào với tóp mỡ. Trám đen còn được dùng làm ô mai, phơi khô để ăn dần. Người miền núi rất thích món trám đen trộn với xôi hay cốm.

Chiều chiều, tôi thường ra đầu bản nhìn lên những vòm cây trám ngóng chim về. Người bản tôi nhìn lên cái ô xanh treo lơ lửng lưng trời ấy mà biết được sức gió. Xa quê đã ngót chục năm trời, tôi vẫn nhớ da diết những cây trám đen ở đầu bản.

Theo VI HỒNG, HỒ THỦY GIANG

Trả lời:

Bài văn này, nếu chia theo cách ngắt đoạn và xuống hàng thì có 4 đoạn. Nếu chia theo nội dung thì có 3 đoạn.

– Ở đây ta chia đoạn theo nội dung:

Đoạn 1: Từ đầu đến “dài chừng một gang”.

Đoạn 2: Từ “Trám đen có hai loại” cho đến “mà không chạm hạt”.

Đoạn 3: Phần còn lại

– Nội dung chính của mỗi đoạn

Đoạn 1: Giới thiệu cây trám đen về vị trí, hình dáng cây và đặc điểm lá.

Đoạn 2: Tập trung nói về quả trám đen và các cách sử dụng quả.

Đoạn 3: Cảm xúc của tác giả khi nhớ về các cây trám đen ở quê hương.

Giải câu 2 – Luyện tập (Trang 53 SGK tiếng việt 4 tập 2)

Hãy viết một đoạn văn nói về lợi ích của một loài cây mà em biết.

Trả lời:

Ở ngay đầu làng em có hai cây bàng cổ thụ. Cho đến bây giờ cũng không mấy người trong làng biết rõ hai cây này đã được trồng từ bao giờ, nhưng ngắm kĩ chúng, người ta hiểu rằng chúng đã nhiều tuổi lắm. Cả hai cây đều có gốc to nổi lên những u lớn xù xì. Thân bàng vươn cao. Cây nào cũng có 3 tán lá. Tán ở dưới cùng là tán lá to nhất, về mùa thu, bàng bắt đầu rụng lá và đến cuối đông thì chỉ còn trơ trụi những cành. Lúc này nhìn cây bàng thấy giống hệt những chiếc sừng hươu lớn. Nhưng vào đầu xuân những mầm non đã nhú ra và chỉ vài chục ngày sau lá đã phấp phới trên cành. Càng vào mùa hạ, cái nắng càng gay gắt thì lá bàng càng xanh tốt. Những tán bàng lớn lợp kín lá xanh xòe rộng ra tỏa bóng mát xuống cả một khu đất rộng, ở dưới bóng mát của tán bàng, trẻ con thường tới chơi đùa, đánh đáo, nhảy dây. Những người lớn đi làm đồng về hoặc đi chợ về thường ghé chân vào ngồi nghỉ dưới gốc bàng, đón nhận ngọn gió mát thổi từ cánh đồng vào cho mau khô đi những giọt mồ hôi trên trán.

Cây bàng không cho quả ngon như cây xoài, cây vải nhưng lại quý ở chỗ tán lá trở thành cái ô xanh đem lại cho con người những giây phút nghỉ ngơi mát mẻ, dễ chịu. Bởi thế mà mọi người đều quý hai cây bàng lớn đó, có lẽ nó sẽ còn đứng mãi ở đầu làng như hai người bạn thân thiết của dân làng.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Tập làm văn: Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối

Bài 1. Xác định các đoạn văn và nội dung chính của từng đoạn trong bài văn dưới đây:

Cây trám đen

Ở đầu bản tôi có mấy cây trám đen. Thân cây cao vút, thẳng như một cột nước từ trên trời rơi xuống. Cành cây mập mạp, nằm ngang, vươn tỏa như những gọng ô. Trên cái gọng ô ấy xòe tròn một chiếc ô xanh ngút ngát. Lá trám đen chỉ to bằng bàn tay đứa trẻ lên ba, nhưng dài chừng một gang.

Trám đen có hai loại. Quả trám đen tẻ chỉ bằng nửa quả nhót to, nhưng hai đầu nhọn hơn. Cùi trám đen tẻ mỏng, cứng, có phần hơi khô, xác, không ngon bằng trám đen nếp. Trám đen nếp cũng màu tím như trám đen tẻ, nhưng quả mập, mỡ màng, cùi dày, bấm ngập móng ngón tay cái mà không chạm hạt.

Cùi trám đen có chất béo, bùi và thơm. Trám đen rất ưa xào với tóp mỡ. Trám đen còn được dùng làm ô mai, phơi khô để ăn dần. Người miền núi rất thích món trám đen trộn với xôi hay cốm.

Chiều chiều, tôi thường ra đầu bản nhìn lên những vòm cây trám ngóng chim về. Người bản tôi nhìn lên cái ô xanh treo lơ lửng lưng trời ấy mà biết được sức gió. Xa quê đã ngót chục năm trời, tôi vẫn nhớ da diết những cây trám đen ở đầu bản.

Trả lời:

Bài văn gồm 4 đoạn và nội dung của từng đoạn được thể hiện như sau:

a) Đoạn 1: “Ở đầu bản tôi có mấy cây trám đen. Thân cây cao vút thẳng như một cột nước từ trên trời rơi xuống. Cành cây mập mạp, nằm ngàn, vươn tỏa như những gọng ô. Trên cái gọng ô ấy xòe tròn một chiếc ô xanh ngút ngát. Lá trám đen chỉ to bằng bàn tay đứa trẻ lên ba, nhưng dài chừng một gang tay”.

* Nội dung: Giới thiệu cây trám đen và tả bao quát thân, cành, lá cây trám.

b) Đoạn 2: “Trám đen có hai loại. Quả trám đen tẻ chỉ bằng nửa quả nhót to, nhưng hai đầu nhọn hơn. Cùi trám đen tẻ mỏng, cứng, có phần hơi khô xác, không ngon bằng trám đen nếp. Trám đen nếp cũng màu tím như trám đen tẻ, nhưng quả mập, mỡ màng, cùi dày, bấm ngập móng ngón tay cái mà không chạm hạt”.

* Nội dung: Chọn một bộ phận (trái trám) mô tả những đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt hai loại trám: trám tẻ và trám nếp.

c) Đoạn 3: “Cùi trám đen có chất béo, bùi và thơm. Trám đen rất ưa xào với tóp mỡ. Trám đen còn được dùng làm ô mai, phơi khô để ăn dần. Người miền núi rất thích món trám đen trộn với xôi hay cốm”. * Nội dung: Nêu công dụng lợi ích của quả trám đen.

d) Đoạn 4: Phần còn lại của văn bản. “Chiều chiều tôi thường ra đầu bản nhìn lên những vòm cây trám ngóng chim về. Người bản tôi nhìn lên cái ô xanh treo lơ lửng lưng trời ấy mà biết được sức gió. Xa quê đã ngót chục năm trời, tôi vẫn nhớ da diết những cây trám đen ở đầu bản”.

* Nội dung: Cảm nghĩ của tác giả về cây trám.

Bài 2. Hãy viết một đoạn văn nói về lợi ích của một loài cây mà em biết.

Trả lời:

Mùa thứ ba này, nhìn cây vú sữa em cảm thấy như cây thấp xuống, xòe rộng ra hơn mọi năm. Các cành lớn, cành nhỏ lủng lẳng những trái là trái, ước tính đến vài trăm. Trái nào trái nấy căng tròn như những trái cam đường bóng láng. Có những cành chỉ nhỉnh hơn ngón chân cái mà có đến gần chục trái chín mọng đeo lõng thõng từ trong ra ngoài, làm cho cành cây cong vòng hơn cả gọng vó. Nhiều lúc gặp phải những ngọn gió mạnh thổi tới tưởng như chúng sẽ bị gãy gập cả xuống. Nhưng cây vú sữa vốn dẻo dai, bền vững như tình người mẹ trong truyện cổ tích. Đúng là một giống cây ăn trái quý hiếm, một giống cây mang một biểu tượng đẹp về người mẹ. Mỗi lần cầm trái vú sữa trên tay, dẫu chưa ăn mà em đã cảm nhận được hương vị ngọt ngào chảy ra từ những bầu sữa kỳ diệu ấy của người mẹ. Ôi! Tình yêu của người mẹ thật như “Suối trong nguồn” mà suốt cả cuộc đời chúng em không bao giờ đền đáp được.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status