Soạn bài – Tam đại con gà

Soạn bài Tam đại con gà (truyện cười) trang 78 – 79 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Tam đại con gà, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

TAM ĐẠI CON GÀ

(Truỵên cười)

TIỂU DẪN

Truyện cười có hai loại: truyện khôi hàitruyện trào phúng. Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí (song vẫn có ý nghĩa giáo dục). Truyện trào phúng có mục đích phê phán. Đối tượng phê phán phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội nông thôn Việt Nam xưa. Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân.

Tam đại con gàNhưng nó phải bằng hai mày là những truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán thầy đồ dốt và quan lại tham nhũng.

VĂN BẢN

Xưa, có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ (1)”, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt.

Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ.

Một hôm, dạy sách Tam thiên tự (2), sau chữ “tước” là chi sẻ, đến chữ “kê” là gà, thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nòi liều: “Dủ dỉ là con dù dì (3).” Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ, tuy vậy, trong lòng vẫn thấp thỏm.

Nhân trong nhà có bàn thờ thổ công (4), thầy mới đến khấn thầm xin ba đài âm dương (5) để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì” không. Thổ công cho ba đài được cả ba

Thấy vậy, thầy lấy làm đắc trí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào:

– Dủ dỉ là con dù dì… Dủ dỉ là con dù dì…

Bố chúng đang cuốc đất ngoài vườn, nghe tiếng học, ngạc nhiên bỏ cuốc chạy vào, giở sách ra xem, hỏi thầy:

– Chết chửa! Chữ “kê” là gà, sao thầy lại dạy ra “dủ dỉ” là con “dù dì”?

Bấy giờ thầy mới nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”, Nhưng nhanh trí thầy vội nói gỡ:

Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ “kê”, mà “kê” nghĩa là “gà”, nhưng tôi dạy thế này là dạy cho cháu biết đến tận tam đại (6) con gà kia.

Nhà chủ càng không hiểu hỏi:

– Tam đại con gà là nghĩa làm sao?

– Thế này nhe! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!

(Theo Trương Chính – Phong Châu, Tiếng cười dân gian Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 1986)

Chú thích:

(1) Nói chữ: nói bằng từ Hán. Người xưa học chữ Hán chứ không được học chữ quốc ngữ như bây giờ.

(2) Tam thiên tự: ba nghìn chữ, sách dạy chữ Hán cho trẻ em thời xưa.

(3) Dù dì: loài chim ăn thịt, cùng họ với cú nhưng lớn hơn, có tiếng kêu “thù thì, thù thì”.

(4) Thổ công: thần cai quản đất đai trong một khu vực.

(5) Đài âm dương: cái đế tiện bằng gỗ, cao khoảng 20 – 30 cm, trên để một cái đĩa có hai đồng tiền chinh (tiền cổ của Việt Nam), quy định một mặt là ngửa, một mặt là sấp. Khi xin âm dương, người xin phải thắp hương khấn, sau đó cầm hai đồng tiền giơ lên thả cho rơi vào lòng đĩa, nếu một ngửa, một sấp là được thần ưng thuận. Mỗi lần xin như vậy gọi là một đài. Người xin âm dương chỉ được phép xin ba lần (tức ba đài). Về sau, không cần đài, người ta chỉ dùng đĩa để thả đồng xu nhưng vẫn gọi là xin đài âm dương.

(6) Tam đại: ba đời.

Hướng dẫn soạn bài – Tam đại con gà

I. Bố cục

– Phần 1 (từ đầu đến “trong lòng vẫn thấp thỏm”): Sự dốt nát của anh học trò.

– Phần 2 (tiếp theo đến “dủ dỉ là con dù dì”?): Sự dốt nát của anh hoc trò suýt bị lật tẩy.

– Phần 3 (đoạn còn lại): Hành động dấu dốt, lấp liếm của anh học trò.

II. Tóm tắt

Xưa có anh học trò dốt nát nhưng cứ lên mặt văn hay chữ tốt. Có hôm đang dạy học trò, gặp chữ không biết, anh nói liều rồi bảo học trò đọc khẽ. Sau xin được đài âm dương, anh mới bảo trẻ đọc to. Người nhà thấy anh dạy chữ “kê” sai liền thắc mắc, anh tìm kế chối quanh: “tôi dạy cháu thế là để nó biết tận tam đại con gà kia”!

Tam đại con gà là câu chuyện cười, phê phán sự dốt nát và hành động dấu dốt của một anh học trò nọ. Từ đó, tác giả dân gian nhằm phê phán, chỉ trích thói “sĩ diện hão” của những thầy đồ dốt mà hay giấu dốt, từ đó nêu một bài học cho muôn đời về sự chân thành trong học hỏi.

III. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Tam đại con gà

Giải câu 1 (Trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Tìm hiểu mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “thầy” (anh học trò dốt làm thầy dạy trẻ) qua việc phân tích ba khía cạnh sau:

– “Thầy” liên tiếp bị đặt vào những tình huống nào?

– “Thầy” đã giải quyết các tình huống đó ra sao?

– Trong quá trình giải quyết các tình huống, “thầy” đã tự bộc lộ cái dốt của mình như thế nào?

Trả lời:

Tình huống đặt ra Giải quyết tình huống Nhân vật tự bộc lộ
– “Thầy” không biết chữ nhưng phải dạy học cho học trò. – Nói liều với học trò, bảo học trò đọc khẽ vì sợ người khác biết. – Không hiểu biết những vẫn nói bừa, làm bừa.
– “Thầy” khấn thổ công, thổ công cho ba quẻ đều được. – Mê tín làm theo, tự tin cho học trò đọc lớn. – Đã dốt nát lại còn ngu muội, không cố gắng tìm hiểu mà dựa vào vận may.
– Bố của học trò thắc mắc về bài học. – Thầy lấp liếm, che đi cái dốt của mình. – Sự dốt nát đi cùng với hành động khôn lỏi.

Giải câu 2 (Trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Hãy chỉ ra ý nghĩa phê phán của truyện. (Có phải chỉ phê phán một đối tượng cụ thể la anh học trò dốt không?)

Trả lời:

Truyện không chỉ phê phán một đối tượng là anh học trò dốt nát mà phê phán thói xấu của con người trong cuộc sống: không có kiến thức nhưng lại không tìm hiểu, học hỏi mà lại tìm hết cách này đến cách khác để dấu dốt, che đậy sự thiết sót của bản thân.

Soạn phần luyện tập bài Tam đại con gà

Giải câu hỏi – Luyện tập (Trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Phân tích hành động và lời nói của nhân vật “thầy” để làm sáng tỏ thủ pháp gây cười trong truyện.

Trả lời:

– Hành động:

+  Bảo học trò đọc khẽ.

+ Khấn xin âm dương thổ công.

+ Bệ vệ ngồi trên giường bảo trẻ đọc thật to.

⇒ Hai hành động đầu tiên là biểu hiện cho sự thận trọng muốn che giấu cái dốt của mình. Hành động thứ ba, ngược lại là biểu hiện của sự đắc chí, sự yên tâm tuyệt đối vào mình và vào thổ công. Và chính vì vậy hành động thứ ba là hành động có khả năng bộc lộ rõ nhất bản chất nhân vật và khiến tiếng cười bật ra một cách thoải mái nhất.

– Lời nói:

+ Dủ dỉ là con dù dì.

+ Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà.

+ Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà…

⇒ Các lời nói càng về sau càng chứa đựng nhiều sự phi lý, ngô nghê, vô nghĩa, thế nhưng nhân vật đem ra làm vũ khí để ngụy biện, chống chế, che giấu cái dốt của mình. Vì thế sự dốt nát lộ càng rõ, càng đầy đủ.

⇒ Như vậy hành động và lời nói của nhân vật càng về sau càng đáng cười. Thủ pháp tăng tiến trong miêu tả hành động và lời nói của nhân vật là thủ pháp gây cười trong truyện.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Tam đại con gà

Câu 1. Tìm hiểu mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “thầy” (anh học trò dốt làm thầy dạy trẻ) qua việc phân tích ba khía cạnh sau:

– “Thầy” liên tiếp bị đặt vào những tình  huống nào?

– “Thầy” đã giải quyết các tình huống đó ra sao?

– Trong quá trình giải quyết các tình huống, “thầy” đã tự bộc lộ cái dốt của mình như thế nào?

Trả lời:

Mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “thầy” (anh học trò dốt làm thầy dạy trẻ):

– “Thầy” liên tiếp bị đặt vào các tình huống khó xử:

+ Là anh học trò học hành dốt nát mà lại làm thầy đồ đi dạy học trò, dạy chữ nhưng lại “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì”. Học trò hỏi gấp, thầy đáp liều.

+ Chủ nhà phát hiện thầy dạy sai thì ra sức bao biện, giấu dốt.

– Cách giải quyết của “thầy”:

+ Tình huống thứ nhất: “thầy” chọn cách “nói liều”, sợ sai bảo học trò đọc nhỏ rồi sau đó thay vì hỏi người giỏi “thầy” lại khấn thổ công.

+ Tình huống thứ hai: khi chủ nhà phát hiện dạy sai, “thầy” vẫn bao biện, “lí sự cùn”, giấu dốt, không chịu thừa nhận cái sai của mình.

– Dù cho cái dốt bị đặt vào các tình huống khó xử thì thầy vẫn cố gắng che giấu để rồi càng che giấu thì bản chất càng lộ ra. ở đây ta thấy được sự phi lí trong cả lời nói và hành động của “thầy”. Đây là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng.

Câu 2. Hãy chỉ ra ý nghĩa phê phán của truyện. (Có phải chỉ phê phán một đối tượng cụ thể la anh học trò dốt không?)

Trả lời:

Ý nghĩa phê phán của truyện:

Câu truyện không chỉ phê phán anh học trò dốt mà phê phán tật xấu giấu dốt, không chịu học hỏi của một bộ phận nhân dân. Câu truyện còn khuyên mọi người đặc biệt là những người đi học: chớ nên giấu dốt, hãy thừa nhận cái sai của mình và mạnh dạn học hỏi từ người khác.

Truyện chỉ dừng lại ở mức phê phán nên tạo ra tiếng cười mang tính chất sảng khoái, không có tính đả kích gay gắt.

Soạn phần luyện tập bài Tam đại con gà (trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Phân tích hành động và lời nói của nhân vật “thầy” để làm sáng tỏ thủ pháp gây cười trong truyện.

Trả lời:

– Hành động: khấn bàn thờ tổ tông xin ba đài âm dương để xác định tính đúng sai của kiến thức, sau khi xin được cả ba đài thì cho học trò đọc lớn => phản khoa học, trái tự nhiên, thể hiện sự ngu muội.

– Lời nói: “Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ “kê”,…tam đại con gà kia”; “Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà” => Hành động dấu dốt bằng sự khôn lỏi.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status