X

Soạn bài – Sự giàu đẹp của tiếng việt

Soạn bài Sự giàu đẹp của tiếng việt trang 34 – 38 SGK ngữ văn lớp 7 tập 2, Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Sự giàu đẹp của tiếng việt sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ và chi tiết nhất.

Sự Giàu Đẹp Của Tiếng Việt

Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.

Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.

[…] Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó, thật sự có những đặc sắc của một thứ tiếng khá đẹp. Nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của quần chúng nhân dân ta, đã có thể nhận xét rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc. Họ không hiểu tiếng ta, và đó là một ấn tượng, ấn tượng của người “nghe” và chỉ nghe thôi. Tuy vậy lời bình phẩm của họ có phần chắc không phải chỉ là một lời khen xã giao. Những nhân chứng có đủ thẩm quyền hơn về mặt này cũng không hiếm. Một giáo sĩ nước ngoài (chúng ta biết rằng nhiều nhà truyền đạo Thiên Chúa nước ngoài cũng là những người rất thạo tiếng Việt), đã có thể nói đến tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”(1).

Tiếng Việt chúng ta gồm có một hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú. Tiếng ta lại giàu về thanh điệu. Giọng nói của người Việt Nam, ngoài hai thanh bằng (âm bình và dương bình)(2) còn có bốn thanh trắc. Do đó, tiếng Việt có thể kể vào những thứ tiếng giàu hình tượng ngữ âm(3) như những âm giai(4) trong bản nhạc trầm bổng. […] Giá trị của một tiếng nói cố nhiên không phải chỉ là câu chuyện chất nhạc. Là một phương tiện trao đổi tình cảm ý nghĩ giữa người với người, một thứ tiếng hay trước hết phải thỏa mãn được nhu cầu ấy của xã hội. Về phương diện này, tiếng Việt có những khả năng dồi dào về phần cấu tạo từ ngữ cũng như về hình thức diễn đạt. Từ vựng(5) tiếng Việt qua các thời kì diễn biến của nó tăng lên mỗi ngày một nhiều. Ngữ pháp cũng dần dần trở nên uyển chuyển hơn, chính xác hơn. Dựa vào đặc tính ngữ âm của bản thân mình, tiếng Việt đã không ngừng đặt ra những từ mới, những cách nói mới hoặc Việt hóa những từ và những cách nói của các dân tộc anh em và các dân tộc láng giềng, để biểu hiện những khái niệm mới, để thỏa mãn yêu cầu của đời sống văn hóa ngày một phức tạp về mọi mặt kinh tế, chính trị, khoa học, kĩ thuật, văn nghệ,…

Chúng ta có thể khẳng định rằng: cấu tạo của tiếng Việt, với khả năng thích ứng với hoàn cảnh lịch sử như chúng ta vừa nói trên đây, là một chứng cớ khá rõ về sức sống của nó.

(Đặng Thai Mai(*), Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, trong Tuyển tập Đặng Thai Mai, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1984)

Chú thích

(*) Đặng Thai Mai (1902-1984) quê ở làng Lương Điền, xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng, nhà hoạt động xã hội có uy tín. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông vừa dạy học, hoạt động cách mạng, vừa sáng tác và nghiên cứu văn học. Từ sau năm 1945, ông giữ nhiều trọng trách trong bộ máy chính quyền và các cơ quan văn nghệ, đồng thời viết một số công trình nghiên cứu văn học có giá trị lớn. Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa – Nghệ thuật.
Bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt (tên bài do người soạn sách đặt) là đoạn trích ở phần đầu của bài nghiên cứu tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, in lần đầu vào năm 1967, được bổ sung và đưa vào Tuyển tập Đặng Thai Mai, tập II.

(1) Guýt-xta-vơ Huê (Gustave Hue), Lời nói đầu tập Từ điển Việt – Trung – Pháp, Nhà in Trung Hòa, Hà Nội, 1937 (chú thích của tác giả).

(2) Âm bình và dương bình: hai thanh bằng trong hệ thống thanh điệu của tiếng Việt. Âm bình (còn gọi là trầm bình): thanh huyền. Dương bình (còn gọi là phù bình): thanh ngang, không có dấu thanh.

(3) Ngữ âm: hệ thống các âm của một ngôn ngữ.

(4) Âm giai: (gam trong âm nhạc) thang bậc âm thanh, gồm những nốt nhạc liền nhau được sắp xếp theo một quy tắc nhất định.

(5) Từ vựng: toàn bộ các từ của một ngôn ngữ.

Hướng dẫn soạn bài – Sự giàu đẹp của tiếng việt

I. Đọc Hiểu Văn bản

Bài nghị luận “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” là bài nghị luận đầy sức thuyết phục về vẻ đẹp, giá trị của ngôn ngữ dân tộc bằng sự phân tích, chứng minh sắc bén của tác giả Đặng Thai Mai.

Bố cục:

– Phần 1 (từ đầu đến “qua các thời kì lịch sử”): Khẳng định tiếng Việt là thứ tiếng hay và đẹp, là niềm tự hào của người Việt Nam.

– Phần 2 (đoạn còn lại): Những minh chứng chứng minh sự giàu đẹp của tiếng Việt.

Giải câu 1 (Trang 37 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Câu 1. Tìm bố cục của bài và nêu ý chính của mỗi đoạn.

Trả lời:

Phần 1 (đoạn 1, 2): Tiếng Việt đẹp và hay (luận điểm chính, tổng quát)

Phần 2 (còn lại): Chứng minh sự giàu đẹp, phong phú của tiếng Việt.

Giải câu 2 (Trang 37 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Câu 2. Hãy cho biết nhận định “ Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” đã được giải thích cụ thể trong đoạn đầu bài văn này như thế nào.

Trả lời:

Nhận định Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp và hay được trình bày:

+ Câu mở đầu khẳng định giá trị, vị thế của tiếng Việt

+ Vế thứ hai, giải thích ngắn gọn nhận định ấy.

Giải câu 3 (Trang 37 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Câu 3. Để chứng minh cho vẻ đẹp của tiếng Việt, tác giả đã đưa ra những chứng cứ gì và sắp xếp các chứng cứ ấy như thế nào?

Trả lời:

Để chứng minh cho vẻ đẹp của tiếng Việt, tác giả trình bày những ý kiến theo 2 phương thức: trực tiếp, gián tiếp.

+ Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, cái đẹp ở mặt ngữ âm

+ Ý kiến của một người nước ngoài: ấn tượng của họ khi nghe người Việt nói, nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ nước ngoài

+ Hệ thống nguyên âm và phụ âm giàu thanh điệu, phong phú

Giải câu 4 (Trang 37 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Câu 4. Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện ở những phương diện nào?

Em hãy tìm một số dẫn chứng cụ thể để làm rõ các nhận định của tác giả.

Trả lời:

Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện qua: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp

– Ngữ âm: Hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú, giàu thanh điệu

– Từ vựng: dồi dào giá trị thơ, nhạc, họa, gợi hình, giàu nhạc điệu

– Ngữ pháp: tiếng Việt rất uyển chuyển, nhịp nhàng

+ Ví dụ: sự hài hòa về thanh điệu, sự phong phú về ngôn từ trong Truyện Kiều hoặc trong Chinh phụ ngâm, thơ của Tố Hữu…

⇒ Tác giả làm nổi bật sự giàu có của tiếng Việt, chính là sự sáng tạo từ ngữ mới phù hợp với sự phát triển của xã hội

Giải câu 5 (Trang 37 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Câu 5.* Điểm nổi bật trong nghệ thuật nghị luận ở bài văn này là gì?

Trả lời:

Điểm nổi bật trong nghệ thuật nghị luận ở bài văn này:

– Tác giả kết hợp hài hòa giữa giải thích, chứng minh với bình luận

– Lập luận chặt chẽ: nhận định ngay phần mở bài, tiếp đó chứng minh

– Tác giả đã phải sử dụng một hệ thống chặt chẽ: nêu nhận định khái quát, giải thích bằng nhiều phương thức linh hoạt

– Sử dụng biện pháp mở rộng câu nhằm làm rõ nghĩa giống như vừa ghi chú, vừa bổ sung thêm nhiều khía cạnh mới hoặc mở rộng điều đang nói.

Soạn phần luyện tập bài Sự giàu đẹp của tiếng việt

Giải câu 1 luyện tập (Trang 37 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Câu 1. Sưu tầm, ghi lại những ý kiến nói về sự giàu đẹp, phong phú của tiếng Việt và nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Trả lời:

+ Phạm Văn Đồng: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật.”

Giải câu 2 luyện tập (Trang 37 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Câu 2. Tìm năm dẫn chứng thể hiện sự giàu đẹp của tiếng Việt về ngữ âm và từ vựng trong các bài văn, thơ đã học hoặc đọc thêm ở các lớp 6,7.

Trả lời:

– Thân gầy guộc, lá mong manh

Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu

(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)

– Chú bé loắt choắt,

Cái xắc xinh xinh,

Cái chân thoăn thoắt,

Cái đầu nghênh nghênh.

(Lượm – Tố Hữu)

– Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao

(Tục ngữ)

– Ông trời

Mặc áo giáp đen

Ra trận

Muôn nghìn cây mía

Múa gươm

Kiến

Hành quân

Đầy đường

(Mưa – Trần Đăng Khoa)

– Càng đổ dần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện.

Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng.

Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.

(Sông nước Cà Mau)

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Sự giàu đẹp của tiếng việt

Câu 1: Tìm bố cục của bài vàn và nêu ý chính của mỗi đoạn.

Bố cục và ý chính của mỗi đoạn văn:

– Bố cục bài văn: có hai đoạn.

– Ý chính của mỗi đoạn như sau:

+ Đoạn 1 (Từ đầu đến … “thời kì lịch sử”): Nêu nhận định tiếng Việt là 1 thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, giải thích nhận định ấy.

+ Đoạn 2 (phần còn lại): Chứng minh cái đẹp và sự giàu có, phong phú (cái hay) của tiếng Việt về các mặt: ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Sự giàu đẹp ấy cũng là một chứng cứ về sức sống của Tiếng Việt.

Câu 2: Hãy cho biết nhận định: “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” đã được giải thích cụ thể trong đoạn đầu bài văn như thế nào?

Nhận định:

“Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” được giải thích cụ thể trong đoạn đầu bài văn này như sau:

Câu mở đầu khẳng định giá trị và địa vị của tiếng Việt từ đó đưa ra luận điểm cơ bản bao trùm: “Tiếng Việt có những đặc sắc… hay”. Tiếp đó giải thích ngắn gọn về nhận định ấy. Tác giả giải thích gọn mà rõ ràng về đặc tính đẹp và hay của tiếng Việt.

Câu 3: Để chứng minh cho vẻ đẹp của tiếng Việt, tác giả đã đưa ra những chứng cứ gì và sắp xếp các chứng cứ ấy như thế nào?

Để chứng minh cho vẻ đẹp của tiếng Việt, tác giả đã đưa ra những chứng cứ sau:

– Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, cái đẹp trước hết ở mặt ngữ âm.

– Ý kiến của người nước ngoài: Ấn tượng của họ khi nghe người Việt nó nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ nước ngoài.

– Hệ thống nguyên âm và phụ âm phong phú, giàu thanh điệu (6 thanh)

– Uyển chuyển, cân đối, nhịp nhàng về mặt cú pháp.

– Từ vựng dồi dào giá trị thơ, nhạc, họa.

– Tiếng Việt là một thứ tiếng hay.

– Có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt và ngữ pháp. Cấu tạo và khả năng thích ứng với sự phát triển là một biểu hiện về sức sống dồi dào của tiếng Việt.

Câu 4: Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt đã được thể hiện ở những phương diện nào? Em hãy tìm một số dẫn chứng cụ thể đế làm rõ các nhận định của tác giả.

Tác giả đà chứng minh sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt về những mặt sau:

– Tác giả đã giải thích về cái đẹp của tiếng Việt: Tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu. Còn về cái hay của tiếng Việt: tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu, có đầy đủ khả năng diễn đạt tình cảm, tư tưởng của con người, thỏa mãn các yêu cầu phát triển của đời sống văn hóa, xã hội.

– Phẩm chất đẹp của một ngôn ngữ là khả năng gợi cảm xúc, chủ yếu được tạo nên bởi hệ thống ngữ âm, sự hài hòa về thanh điệu và nhịp điệu. Còn cái hay chủ yếu là ở khả năng diễn tả tình cảm, tư tưởng, phản ánh đời sống phong phú, tinh tế, chính xác. Giữa hai phẩm chất ấy có mối quan hệ gắn bó. Cái đẹp của một thứ tiếng thường cũng phản ánh cái hay của thứ tiếng ấy, vì nó thể hiện sự tinh tế trong cách dien đạt và sự chính xác trong tình cảm, tư tưởng con người. Đồng thời, cái hay cũng tạo ra vẻ đẹp của một ngôn ngữ.

Câu 5: Điểm nổi bật trong nghệ thuật nghị luận của bài là gì?

Phép lập luận chứng minh của tác giả trong bài này rất chặt chẽ và có sức thuyết phục, bởi vì:

– Lập luận chặt chẽ: đưa nhận định ngay ở phần mở bài, tiếp đó giải thích và mở rộng nhận định ấy, sau đó dùng các chứng cứ để chứng minh.

– Các dẫn chứng được dẫn khá toàn diện, bao quát, không sa vào những dẫn chứng quá cụ thể, tỉ mỉ. Nhưng chính vì thế người đọc phải có những hiểu biết cụ thể để minh họa cho chứng cứ.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

Ngọc Lan: Ngủ dậy muộn thì phí mất cả ngày, ở tuổi thanh niên mà không học tập thì phí mất cả cuộc đời .
Leave a Comment