Soạn bài – Sống chết mặc bay

Soạn bài Sống chết mặc bay trang 74 – 83 SGK ngữ văn lớp 7 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Sống chết mặc bay, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ và chi tiết nhất.

Truyện ngắn Sống chết mặc bay

Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà(1) lên to quá; khúc đê làng X.(a) thuộc phủ X.(b) xem chừng núng thế(2) lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu(3) rồi, không khéo thì vỡ mất.

Dân phu(4) kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ(5), bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật là thảm.

Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi(6), tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ(7), nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất.

soan bai song chet mac bay sgk ngu van 7 tap 2 anh 01

Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ(8) lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ(9) ở đâu?

Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.

Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ(10) lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập(11), mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu(12), uy nghi chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ(13) đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực chầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến(14) hấp đường phèn, để trong khay khảm(15), khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật(16) để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía(17), hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông(18) trông mà thích mắt. Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan(19) thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì(20), sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng(21) sở tại(22) cùng ngồi hầu bài.

soan bai song chet mac bay sgk ngu van 7 tap 2 anh 02

Ngoài kia, tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch(23) nghiêm trang lắm: trừ quan phụ mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng. So với cái cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ(24), nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà, lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm(25), như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu, mày”(26); tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm, bốc”(27); tiếng quan lớn truyền: “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách! Ăn”. Người kia: “Thất văn(28)… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh(29).

Ấy đó, quan phụ mẫu cùng với nha lại(30) đương vui cuộc tổ tôm ở trong đình ấy. Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thây kệ.

Ôi! Trăm hai mươi lá bài đen đỏ, có cái ma lực(31) gì mà run rủi cho quan mê được như thế?… Này, này đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy, không bằng nước bài(32) cao thấp. Đứng trên đê mà đốc kẻ cắm cừ, người đổ đất, lắm nỗi lầm than, sao bằng ngồi trong đình, đã sẵn kẻ bốc nọc(33) người chia bài, nhiều đường thú vị.

Than ôi! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch(34)!…

Mặc! Dân, chẳng dân thời chớ! Con bài ngon há nỡ bỏ hoài ru! Quan lớn ngài ăn, ngài đánh; người hầu kẻ hạ, kẻ vâng. Sướng bao nhiêu, thích bao nhiêu! Lúc quan hạ, bài ù, ai ai là người chẳng ngợi khen tấm tắc! Một nước bài cao, bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập! Vậy mà không hiểu thời thật là phàm(35)!

Quan lớn ù thông(36). Người đầu cánh kẻ cuối tay, tranh nhau phô bài(37) để quan lớn rõ, rằng: “Mình vào được nhưng không dám cố ăn kìm!”.Rằng: “Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt!”. Hèn chi mà quan chẳng ù luôn! Quan ù, ấy là hạnh phúc!…

Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ.Vì ngài sắp ù to.

Có người khẽ nói:

– Bẩm, dễ có khi đê vỡ!

Ngài cau mặt, gắt rằng:

– Mặc kệ!

Rồi ngài xếp bài lại, quay gối dựa sang bên tay phải, nghiêng mình bảo thầy đề lại:

– Có ăn không thì bốc chứ!

Thầy đề vội vàng:

– Dạ, bẩm, bốc.

Vừa lúc đó thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía.

Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên(38) một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời:

– Bẩm… quan lớn… đê vỡ mất rồi!

Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:

– Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?

– Dạ, bẩm…

– Đuổi cổ nó ra!

Ngài quay mặt vào, lại hỏi thầy đề:

– Thầy bốc quân gì thế?

– Dạ, bẩm, con chưa bốc.

– Thì bốc đi chứ!

Thầy đề tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc, rút ra một con bài, lật ngửa, xướng rằng:

– Chi chi(39)!

Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:

– Đây rồi!… Thế chứ lại!

Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười vừa nói:

– Ù! Thông tôm, chi chi nảy(40)!… Điếu, mày!

Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!

(Phạm Duy Tốn(*), tạp chí Nam phong, số 18 -1918,

trong Truyện ngắn Nam phong (tuyển),

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)

Chú thích:

(*) Phạm Duy Tốn (1883-1924): nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội), là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Sống chết mặc bay được coi là tác phẩm thành công nhất của ông.

(1) Nhị Hà: cũng gọi là Nhĩ Hà, chỉ khúc sông Hồng từ phía dưới Việt Trì trở xuống Thăng Long theo hình uốn cong như vành tai (nhĩ).

(2) Núng thế: ở vào trạng thái không còn vững chắc, dễ đổ, dễ sụt xuống.

(3) Thẩm lậu: (hiện tượng chất lỏng) ngấm qua và rỉ ra chảy đi nơi khác.

(4) Dân phu: người dân bị bắt đi làm các việc công ích trong xã hội cũ.

(5) Cừ: dùng những tấm ván hoặc phên đan và đóng cọc đỡ để ngăn đê vỡ, nước tràn.

(6) Liên thanh: tiếng liền tiếng; ốc thổi vô hồi: tiếng tù và làm bằng vỏ ốc lớn thổi liên tiếp, không kể hồi.

(7) Hộ: giúp đỡ, che chở. Ở đây là cùng nhau bảo vệ đê.

(8) Bảo thủ: bảo vệ (bảo) để giữ lấy (thủ). Ở đây, bảo thủ không có nghĩa giữ lấy những điều lạc hậu theo nghĩa thông thường hiện nay.

(9) Quan cha mẹ: cũng gọi là quan phụ mẫu. Thời phong kiến cũng như thời Pháp thuộc có quan niệm coi quan như cha mẹ của dân (dân chi phụ mẫu). Ở đây dùng với ý mỉa mai.

(10) Nha lệ: viên chức và lính hầu ở các cửa quan ngày trước.

(11) Sập: đồ dùng chủ yếu để nằm, được làm bằng gỗ, mặt liền với chân, xung quanh có diềm chạm hoặc khảm để trang trí.

(12) Quan phụ mẫu: xem chú thích (9) (phụ: cha; mẫu: mẹ)

(13) Lính lệ: lính hầu hạ quan lại ở huyện, phủ.

(14) Yến: yến sào, món ăn quý được chế biến từ tổ chim yến (loài chim ở biển, cùng họ với én, làm tổ bằng nước bọt) (yến: én; sào: tổ).

(15) Khay khảm: khay khảm xà cừ hoặc khảm bạc (khay: đồ dùng để bày xếp ấm chén hoặc đựng đồ vật nhỏ).

(16) Tráp đồi mồi chữ nhật: đồ dùng hình hộp chữ nhật nhỏ, làm bằng vỏ con đồi mồi (rùa biển).

(17) Trầu vàng: lá trầu vàng, ăn ngon hơn lá trầu xanh; cau đậu: cau khô mà hạt còn dính không rời; rễ tía: một thứ rễ cây màu đỏ dùng để ăn trầu (còn gọi là vỏ đỏ).

(18) Tăm bông: tăm xỉa răng đầu có vót xơ cho đẹp (quan lại và lớp người quý phái thường dùng).

(19) Phía hữu quan: chỗ ngồi về phía bên phải của quan.

(20) Đề: viên chức đứng đầu công việc văn phòng ở huyện hoặc phủ thời phong kiến và thời thuộc Pháp; đội nhất: chức đội hạng nhất (người chỉ huy một đơn vị lính khoảng 10 người); thông nhì: thông phán hạng hai (thông phán là viên chức trung cấp làm việc ở các công sở dưới thời Pháp thuộc).

(21) Chánh tổng: chức vụ của người đứng đầu công việc hành chính của một tổng (gồm nhiều xã).

(22) Sở tại: tại chỗ.

(23) Tĩnh mịch: yên tĩnh.

(24) Đường bệ: đường hoàng, bệ vệ.

(25) Nghi vệ tôn nghiêm: nghi thức tôn kính, trang nghiêm.

(26) Quan phụ mẫu gọi: “Điếu, mày!”: cách nói ra lệnh với giọng hách dịch để sai lính hầu lấy điếu hút thuốc.

(27) Trong truyện này có mấy động từ dùng trong khi đánh tài bàn hoặc tổ tôm:

Bốc: rút quân bài từ đĩa nọc (đĩa đựng phần còn lại của bộ bài đã chia, được đặt ở giữa chiếu bài).

Ăn: lấy quân bài của người khác đánh hoặc rút ra từ đĩa nọc để hợp vào phu bài của mình.

Phỗng: bắt được một quân bài do người khác đánh hoặc bốc từ đĩa nọc giống với quân bài mình có sẵn để ghép thành phu.

Chờ: bài đã đủ điều kiện chỉ chờ bắt trúng một quân nữa là thành phu là ù.

Hạ: đặt bài xuống chiếu để xướng ù.

Ù: được thắng bài sau khi đã vào phu hết.

(28) Bát sách, thất văn: tên hai quân bài trong bộ bài tổ tôm.

(29) Phúc tinh: ngôi sao tốt đưa lại hạnh phúc cho con người – theo quan niệm thiên văn của người xưa (tinh: sao, thiên thể).

(30) Nha lại: từ chỉ chung các công chức làm việc trong cửa quan ngày trước.

(31) Ma lực: sức cám dỗ, lôi cuốn mạnh mẽ, như có gì thần bí khiến người ta khó cưỡng lại.

(32) Nước bài: từ thường dùng trong khi đánh bài cũng như đánh cờ (nước cờ) để chỉ bước đi của quân bài có ảnh hưởng đến thế của ván bài.

(33) Bốc nọc: rút bài từ đĩa nọc.

(34) Huyết mạch: mạch máu (huyết: máu); đồng bào huyết mạch: đồng bào cùng chung một dòng máu.

(35) Phạm: thô tục, không lịch sự, không thanh nhã.

(36) Ù thông: đã ù lại ù tiếp.

(37) Phô bài: bày bài ra cho người khác xem.

(38) Thốt nhiên: thình lình và rất nhanh.

(39) Chi chi: tên một con bài bốc ở đĩa nọc mà với nó, có thể ù ván bài to nhất.

(40) Trong trò chơi tổ tôm có nhiều mức ù. Ù “tôm” cao hơn ù thường. Ù “chi chi nảy” là ù cao nhất. Ù “thông tôm, chi chi nảy”: ù tiếp theo, trong đó vừa có “tôm” vừa có “chi chi nảy” (trường hợp hiếm).

Hướng dẫn soạn bài – Sống chết mặc bay

I. Bố cục

– Phần 1 (từ đầu… khúc đê này hỏng mất): Cảnh người dân chống con đê sắp vỡ.

– Phần 2 (tiếp… điếu, mày): Bọn quan lại vô trách nhiệm mải mê đánh đổ tôm.

– Phần 3 (còn lại): Đê bị vỡ, nhân dân lâm vào cảnh sầu thảm.

II. Tóm tắt

Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to, khúc đê làng X có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm hàng nghìn người dân ra sức chống chọi với sức nước. Thế mà tại ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung cùng các quan đánh bài.  Có người báo đê vỡ, ngài vẫn thản nhiên quát mắng. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to, cũng là lúc “khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn”.

III. Cách đọc

Trong một truyện ngắn, giọng điệu có ý nghĩa rất quan trọng đối với giá trị của tác phẩm. Với đặc trưng hàm súc, tác giả truyện ngắn tận dụng tối đa những lợi thế của giọng điệu để thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của mình, đồng thời khắc hoạ đời sống một cách sâu sắc. Từ giọng điệu của tác giả cho đến giọng điệu của các nhân vật, khi đọc cần chú ý thể hiện sinh động và chính xác. Cụ thể, trong truyện ngắn này có những nhân vật chủ yếu sau:

– Giọng người kể chuyện (về mặt nào đó có thể coi là giọng của tác giả): mỉa mai, châm biếm khi viết về nhân vật “quan lớn”, xót thương khi miêu tả thảm cảnh mà dân chúng đang gặp phải.

– Giọng quan phụ mẫu: vừa hách dịch (khi sai bảo) vừa thờ ơ (khi nghe nói đến cảnh lũ lụt).

– Giọng nha lại, thầy đề: nịnh nọt, sun xoe,…

IV. Hướng dẫn soạn bài Sống chết mặc bay chi tiết

Giải câu 1 (Trang 81 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Sống chết mặc bay có thể được chia thành mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?

Trả lời:

Truyện ngắn Sống chết mặc bay có thể chia làm 3 đoạn:

Phần 1 (từ đầu … khúc đê này hỏng mất): Cảnh người dân chống con đê sắp vỡ.

Phần 2 (tiếp… điếu, mày): Bọn quan lại vô trách nhiệm đánh tổ tôm bỏ mặc dân chúng trước cơn lũ.

Phần 3 (còn lại): Đê vỡ nhân dân sa vào cảnh lầm than.

Giải câu 2 (Trang 82 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Phép tương phản (cũng gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để qua đó làm nổi bật một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.

Dựa vào định nghĩa trên em hãy:

a) Chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay.

b) Phân tích làm rõ từng mặt trong sự tương phản đó. (Chú ý đến các chi tiết thuộc về cảnh người dân đang hộ đê trong trạng thái nguy kịch và các chi tiết thuộc về cảnh tên quan đang cùng nha lại chơi bài trong đình với không khí tĩnh mịch, trang nghiêm.)

c) Chỉ ra qua hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc họa như thế nào. (Chú ý đến các chi tiết thuộc về: chỗ ở, điều kiện sinh hoạt trong khi đi “đốc thúc việc hộ đê”; cách ngồi, tư thế, giọng điệu ngôn ngữ trước bọn nha lại, chánh tổng…, đặc biệt là thái độ, cách nói khi đã có tin đê vỡ.)

d) Nêu lên dụng ý của tác giả trong việc dựng cảnh tương phản này.

Trả lời:

a) Hai mặt tương phản trong truyện:

Dân chúng vật lộn với bão lũ, chống chọi với mưa lũ >< Bọn quan lại hộ đê ngồi nơi an toàn, nhàn nhã đánh bài bạc bỏ mặc dân chúng.

b) Cảnh người dân hộ đê: cẳng thẳng, nhốn nháo.

+ Người dân bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai ai cũng mệt lử.

+ Mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên.

⇒ Thảm cảnh người dân chống cơn nước lũ buồn thảm, khổ cực.

Cảnh bọn quan lại: nhàn hạ, an toàn.

+ Quan lại ngồi nơi cao ráo, vững chãi, quây đánh tổ tôm.

+ Cảnh trong đình nhàn nhã, đường bệ, nguy nga.

⇒ Quan lại tắc trách, tham lam.

c) Hình ảnh viên quan hộ đê: bỏ mặc dân, ngồi chơi nhàn nhã.

+ Đồ dùng sinh hoạt cho quan hộ đê thể hiện cuộc sống xa hoa: ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà.

+ Quan ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu người hạ túc trực, được ăn cao lương mĩ vị.

+ Quan đỏ mặt, tía tai đòi cách chức, đuổi cổ người dân báo đê vỡ.

→ Sự đê tiện, tham lam của tên quan vô lại.

d) Tác giả dựng lên cảnh tương phản nhằm:

+ Tố cáo sự vô trách nhiệm, tham lam, lòng lang dạ thú của bọn quan lại.

+ Cảnh khốn cùng, tuyệt vọng của người dân khi chống chọi bão lũ.

+ Cảnh người dân thống khổ, cảnh quan sung sướng vì thắng ván bài.

Giải câu 3 (Trang 82 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Trong nghệ thuật văn chương còn có phép tăng cấp (lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), qua đó làm rõ thêm bản chất một sự việc, một hiện tượng muốn nói. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã kết hợp khéo léo phép tương phản và phép tăng cấp để bộc lộ rõ nét tính cách của nhân vật.

Em hãy phân tích, chứng minh ý kiến trên bằng cách trả lời các câu hỏi sau:

a) Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ của trời mưa, của độ nước sông dâng cao, của nguy cơ vỡ đê, của cảnh hộ đê vất vả, căng thẳng của người dân (trong đó có mức độ của tiếng trống đánh, ốc thổi, tiếng người gọi nhau sang hộ đê) là thế nào?

b) Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan phủ như thế nào?

c*) Hãy nhận xét về tác dụng của sự kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần bản chất “lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sinh mạng của người dân.

Trả lời:

a) Phép tăng cấp được thể hiện trong nhiều mặt:

– Cảnh hộ đê của dân: tăng cấp theo mức độ nguy cấp: mưa tầm tã, vẫn mưa tầm tã trút xuống, nước sông dâng lên to quá.

– Cảnh quan lại nhàn hạ, sa hoa trên đình đối lập với cảnh khốn khổ của dân chúng chống chọi với mưa lũ.

b) Phép tăng cấp dùng để miêu tả thái độ vô trách nhiệm, lòng dạ lang thú của viên quan:

+ Quan ngồi nơi vững chãi, an toàn, có kẻ hầu người hạ xung quanh.

+ Quan la mắng, dọa dẫm đám người bẩm báo đê vỡ.

+ Mức độ vô trách nhiệm, cáu gắt vô lí của quan được thể hiện rõ nét.

c*) Sự kết hợp của nghệ thuật tăng cấp đã tố cáo, phê phán sự thờ ơ, tắc trách của quan hộ đê.

+ Y vui mừng, sung sướng khi thắng ván bài trong khi dân khốn cùng, khổ cực.

→ Nghệ thuật đối làm tăng cao khả năng tố cáo, phê phán sâu sắc kẻ lòng lang dạ thú.

Giải câu 4 (Trang 82 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Hãy phát biểu chung về giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật (ngôn ngữ, hình tượng, nhân vật,…) của truyện Sống chết mặc bay.

Trả lời:

– Giá trị hiện thực: Phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị tham lam, vô trách nhiệm mà tiêu biểu là tên quan phụ mẫu hộ đê.

– Giá trị nhân đạo: Cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên nhiên.

– Giá trị nghệ thuật:

+ Truyện ngắn bằng chứ quốc ngữ, nhân vật bắt đầu có tính cách.

+ Tác giả sử dụng thành biện pháp tương phản, tăng cấp nhằm trực tiếp phê phán bản chất xấu xa của bọn quan lại thú tính.

Soạn phần luyện tập bài Sống chết mặc bay

Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 83 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Hãy cho biết những hình thức ngôn ngữ nào sau đây đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay:

Hình thức ngôn ngữ Không
Ngôn ngữ tự sự
Ngôn ngữ miêu tả
Ngôn ngữ biểu cảm
Ngôn ngữ người kể chuyện
Ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
Ngôn ngữ đối thoại

Trả lời:

Hình thức ngôn ngữ Không
Ngôn ngữ tự sự X
Ngôn ngữ miêu tả X
Ngôn ngữ biểu cảm X
Ngôn ngữ người kể chuyện X
Ngôn ngữ nhân vật X
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm X
Ngôn ngữ đối thoại X

Giải câu 2* – Luyện tập (Trang 83 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính cách của nhân vật đó như thế nào? Hãy nêu nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính cách nhân vật.

Trả lời:

Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính cách của nhân vật đó như thế nào? Hãy nêu nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính cách nhân vật.

Ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính cách của nhân vật quan phủ:

+ Hống hách, độc đoán, vô trách nhiệm…

+ Hắn vô trách nhiệm, bỏ mặc tính mạng của người dân

⇒ Giữa tính cách và ngôn ngữ có mối liên hệ chặt chẽ, đó là thành công của tác giả.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Sống chết mặc bay

Câu 1. Sống chết mặc bay có thể được chia thành mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?

Trả lời:

“Sống chết mặc bay” có thể chia làm 3 phần:

– Phần 1: từ đầu đến “khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ vỡ đê và sự chống đỡ của người dân.

– Phần 2: tiếp đến “điếu mày”: cảnh quan phủ cùng các nha lại đánh tổ tôm trong khi đi hộ đê (đi bảo vệ đê).

– Phần 3: Còn lại: Cảnh vỡ đê, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.

Câu 2. Phép tương phản (cũng gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để qua đó làm nổi bật một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.

Dựa vào định nghĩa trên em hãy:

a) Chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay.

b) Phân tích làm rõ từng mặt trong sự tương phản đó. (Chú ý đến các chi tiết thuộc về cảnh người dân đang hộ đê trong trạng thái nguy kịch và các chi tiết thuộc về cảnh tên quan đang cùng nha lại chơi bài trong đình với không khí tĩnh mịch, trang nghiêm.)

c) Chỉ ra qua hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc họa như thế nào. (Chú ý đến các chi tiết thuộc về: chỗ ở, điều kiện sinh hoạt trong khi đi “đốc thúc việc hộ đê”; cách ngồi, tư thế, giọng điệu ngôn ngữ trước bọn nha lại, chánh tổng…, đặc biệt là thái độ, cách nói khi đã có tin đê vỡ.)

d) Nêu lên dụng ý của tác giả trong việc dựng cảnh tương phản này.

Trả lời:

a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.

b) Những người dân hộ đê: Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai ai cũng mệt lử cả rồi; trong khi mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm”.

c) Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, các tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi cách cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, “tình cảnh thảm sầu” không sao kể xiết.

d) Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi bật sự đối lập. Người có trách nhiệm thì vô trách nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên nhiên một cách tuyệt vọng. Cuối cùng, sự vô trách nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt.

Câu 3. Trong nghệ thuật văn chương còn có phép tăng cấp (lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), qua đó làm rõ thêm bản chất một sự việc, một hiện tượng muốn nói. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã kết hợp khéo léo phép tương phản và phép tăng cấp để bộc lộ rõ nét tính cách của nhân vật.

Em hãy phân tích, chứng minh ý kiến trên bằng cách trả lời các câu hỏi sau:

a) Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ của trời mưa, của độ nước sông dâng cao, của nguy cơ vỡ đê, của cảnh hộ đê vất vả, căng thẳng của người dân (trong đó có mức độ của tiếng trống đánh, ốc thổi, tiếng người gọi nhau sang hộ đê) là thế nào?

b) Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan phủ như thế nào?

c*) Hãy nhận xét về tác dụng của sự kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần bản chất “lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sinh mạng của người dân.

Trả lời:

a) Với cảnh người dân hộ đê, phép tăng cấp thể hiện trong cách miêu tả: Cảnh trời mưa mỗi lúc mỗi tăng (“mưa tầm tã”, “vẫn mưa tầm tã trút xuống”. Mức nước sông mỗi lúc một dâng cao (“nước sông Nhị Hà lên to quá”, “dưới sông thì nước cứ cuồn cuộn bốc lên”). Âm thanh (tiếng trống, tiếng tù và, tiếng người gọi nhau  hộ đê) mỗi lúc một ầm ĩ. Sức người mỗi lúc một đuôi. Nguy cơ đê vỡ mỗi lúc một đến gần và cuối cùng đã đến…

b) Với cảnh quan phủ đánh tổ tôm trong đình, phép tăng cấp được vận dụng vào việc miêu tả độ đam mô tổ tôm của tên quan phủ mỗi lúc một tăng. Mê bạc do không trực tiếp chứng kiến cảnh hộ đô đã đành, nhưng trước sân đình, mưa đổ xuống mỗi lúc một tăng mà coi như không biết gì thì độ mê đã quá lớn. Đến khi người dân phu báo tin đê vỡ, vẫn thờ ơ, lên giọng quái nạt và tiếp tục đánh đến “Ù! Thông tôm, chi chi nảy” trong niềm vui cực độ nhưng là phi nhân tính “lòng lang dạ thú”. Phép tăng cấp trong nghệ thuật có tác đụng làm rõ thêm tâm lí, tính cách nhân vật là như thế.

c*) Sự kết hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhưng y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự kết hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc.

Câu 4. Hãy phát biểu chung về giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật (ngôn ngữ, hình tượng, nhân vật,…) của truyện Sống chết mặc bay.

Trả lời:

– Giá trị hiện thực:

   + Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt.

+ Phản ánh tình cảnh khốn khổ của người dân nghèo trong xã hội phong kiến.

– Giá trị nhân đạo:

+ Truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra.

+ Đồng thời lên án thờ ơ, vô trách nhiệm đến mức độc ác của bọn quan lại.

– Giá trị nghệ thuật:

Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Vận dụng thành công sự kết hợp hai phép nghệ thuật tương phản và tăng cấp. Có trình độ ngôn ngữ khá sinh động. Ngôn ngữ phần nào đã thể hiện cá tính nhân vật. Câu văn sáng gọn, sinh động.

Soạn phần luyện tập bài Sống chết mặc bay trang 83 SGK ngữ văn 7 tập 2

Bài 1. Hãy cho biết những hình thức ngôn ngữ nào sau đây đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay:

Hình thức ngôn ngữ Không
Ngôn ngữ tự sự
Ngôn ngữ miêu tả
Ngôn ngữ biểu cảm
Ngôn ngữ người kể chuyện
Ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
Ngôn ngữ đối thoại

Trả lời:

Hình thức ngôn ngữ Không
Ngôn ngữ tự sự X
Ngôn ngữ miêu tả X
Ngôn ngữ biểu cảm X
Ngôn ngữ người kể chuyện X
Ngôn ngữ nhân vật X
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm X
Ngôn ngữ đối thoại X

Bài 2*. Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính cách của nhân vật đó như thế nào? Hãy nêu nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính cách nhân vật.

Trả lời:

Bằng ngôn ngữ đối thoại ngắn gọn, mang đậm tính mệnh lệnh, tác giả đã vẽ lên trước mắt người đọc bức chân dung của tên quan phủ. Đó là một kẻ hống hách, độc đoán, vô trách nhiệm. – Y gọi: Điếu, mày! và hắn đồng ý bằng một tiếng: “Ừ”. Có khi y đối thoại trống không: “Mặc kệ! Có ăn không thì bổc chứ! Đuổi cổ nó ra!” – Khi bực mình, hắn tuôn ra hàng dài những lời quở trách: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám đế cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?” Như vậy, thông qua ngôn ngữ đỏi thoại nhân vật, viên quan phụ mẫu hiện lên là một kẻ hống hách, độc đoán, vô trách nhiệm. Qua đó, cũng cho thấy giữa ngôn ngữ và tính cách nhân vật có mối liên hệ chặt chẽ. Ngôn ngữ phản ánh tính cách của nhân vật. Đây là sự thành công trong nghệ thuật của tác giả.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status