Soạn bài – Quan Âm Thị Kính

Soạn bài Quan Âm Thị Kính trang 111 – 121 SGK ngữ văn lớp 7 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Quan Âm Thị Kính, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

QUAN ÂM THỊ KÍNH

Tóm tắt nội dung

Vở chèo(*) có thể chia làm ba phần:

  1. Án giết chồng

Thiện Sĩ, con Sùng ông, Sùng bà, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ bên cạnh. Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình, bất giác hô hoán lên. Cha mẹ chồng đổ riệt cho Thị Kính có ý giết Thiện Sĩ, đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ.

soan bai quan am thi kinh sgk ngu van 7 tap 2

Quan Âm Thị Kính – tượng ở chùa Tây Phương

  1. Án hoang thai

Bị oan ức nhưng không biết kêu vào đâu, Thị Kính giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, lấy pháp hiệu và Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, say mê Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mầu về nhà đùa ghẹo, ăn nằm với anh Nô là người ở, rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu khai cho Kính Tâm. Kính Tâm bị oan, bị đuổi ra tam quan (cổng chùa). Thị Mầu đem con bỏ cho Kính Tâm.

  1. Oan tình được giải – Thị Kính lên tòa sen

Trải ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng “hóa”, được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi “hóa”, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới rõ Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ biết nhẫn nhục của nàng.

Trích đoạn

NỖI OAN HẠI CHỒNG

Thiện Sĩ: (nói sử) Nàng ơi, đã bao lâu soi kinh bóng quế(1)

Ta dùi mài đợi hội long vân(2)

Đêm nay nghe mỏi mệt tâm thần

Mượn kỉ(3) này ta nghỉ lưng một lát.

(Thị Kính dọn kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thiện Sĩ thiu thiu ngủ. Một lát, Thị Kính chăm chú nhìn dưới cằm chồng, băn khoăn.)

Thị Kính: (nói sử) Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc,

Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta.

Râu làm sao một chiếc trồi ra?

Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược

Khi chàng thức giấc biết làm sao được.

Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng,

Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an

Âu dao bén, thiếp xén tày một mực.

(Thị Kính cầm dao toan xén chiếc râu. Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên.)

Thiện Sĩ: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng!

Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường…

(Sùng ông, Sùng bà cùng hốt hoảng chạy ra.)

Sùng bà: Làm sao đấy hở? Làm sao?

Sùng ông: Bất thường làm sao? Việc gì ban đêm không để xóm giềng ngủ. Vợ chồng lại ầm ĩ lên như thế?

Thiện Sĩ: (nói đếm)

Thưa cha mẹ, đêm qua con ngồi học đã khuya

Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ.

Con nói đây, có quỷ thần chứng tỏ

Dầu thực hư đôi lẽ con chưa tường.

Sùng ông: Hú vía! Kề cổ mày hay kề cổ ai hở con?

Sùng bà: (gắt Sùng ông)

Thôi đi, lại còn kề cổ ai vào đây nữa?

Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à?

(Dúi đầu Thị Kính ngã xuống) Úi chao! Tôi đã bảo ông mà!

Lấy vợ cho con thì phải kén họ. Tôi đã bảo là phải kén những nơi công hầu(4) kia mà! (Múa hát sắp chợt)

Giống phượng giống công(5)

Giống nhà bà đây giống phượng giống công.

Còn tuồng bay mèo mả gà đồng(6) lẳng lơ.

Chứ bây giờ bay mới lộ cái mặt ra,

Chứ bây giờ sao chẳng mở cái mồm ra?

Thị Kính: (khóc) Lạy cha, lạy mẹ! Cho con xin trình cha mẹ…

Sùng bà: Thôi câm đi! Lại còn dám mở mồm nữa à?

(Tiến lại phía Thiện Sĩ) Úi chao! Hú hồn hú vía cho con tôi!

Giải kiếp! Giải kiếp! (Quay lại Thị Kính)

(Nói lệch) Cả gan! Cả gan! Cái con này thật cả gan!

May cho con tao sực tỉnh giấc vàng,

Tỉnh tình tinh nữa còn gì mà không chết?

Này con kia! Mày có trót say hoa đắm nguyệt

Đã trên dâu dưới Bộc(7) hẹn hò…

Thị Kính: (vật vã khóc) Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi!

Sùng bà: (nói tiếp) Mày cứ thú với bà, bà cũng thứ đi cho.

Can chi phải dụng tình bất trắc(8).

Mày ngửa mặt lên cho bà xem nào!

Sùng ông: Thì mày ngửa lên cho bà ấy xem!

(Thị Kính ngửa mặt rũ rượi.)

Sùng bà: (nói lệch) Ôi chao ơi là mặt!

Chém bổ băm vằm xả xích mặt!

Gái say trai lập chí giết chồng?

Thị Kính: Oan cho con lắm mẹ ơi!

Chàng học khuya mỏi mệt.

Con thấy râu mọc ngược dưới cằm…

Sùng bà: Lại còn oan à?

Rõ rành rành mười mắt đều trông.

Phi mặt gái trơ như mặt thớt!

Sùng ông: Thì ra con Thị Kính này nó là gái giết chồng thật hở bà?

Sùng bà: Úi giời ơi! Chồng với con! Ông chửa mở mắt được ra mà trông kia kìa (trỏ con dao dưới đất).

Lúc nào cũng rượu, lúc nào cũng say. Ăn nói thì bèm lèm bèm…

… Này con kia! Tam tòng tứ đức(9) nhà mày để ở đâu hử?

(nói lệch) Sao mày không sợ gươm trời búa nguyệt(10),

Cả gan thay cho bụng đàn bà,

Ngựa bất kham thôi phó về Bồng Báo(11).

Này, bà bảo cho mà hay này: đồng nát thì về Cầu Nôm(12)

Con gái nỏ mồm thì về ở với cha, biết không?

(hát sắp) Lại nở ra rồng

Trứng rồng lại nở ra rồng(13)

Liu điu lại nở ra dòng liu điu(14).

(nói lệch) Này! Nhà bà đây cao môn lệnh tộc(15).

Mày là con nhà cua ốc

Cho nên chữ tam tòng mày ăn ở đơn sai

Chả công đâu bà đánh mắng cho hoài

Gọi Mãng tộc, phó về cho rảnh thôi ông ạ!

Ơ hay! … Thế ông vẫn ngồi chết ở đấy à?

Sùng ông: Sao bà bảo tôi ngồi gí xuống đây thì tôi đừng ngồi à?

Sùng bà: Không biết gọi Mãng tộc sang đây mà giao trả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi!

Sùng ông: Ừ thì đi!

Thị Kính: (với Thiện Sĩ) Oan thiếp lắm chàng ơi!

Sùng bà: Thôi con vào rửa mặt mà đọc sách. Rồi đây mẹ lấy cho dăm vợ, tiếc gì cái đồ sát chồng kia nữa!

Thị Kính: Mẹ xét tình cho con, oan cho con lắm mẹ ơi!

Sùng bà: Hãy còn oan à? (với Thiện Sĩ) Đi! Đi vào!

(Thị Kính chạy theo van xin, Sùng bà dúi tay ngã khuỵu xuống thì có tiếng Sùng ông nói từ ngoài cổng.)

Sùng ông: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu!

Mãng ông: Đấy, tôi biết ngay mà! Mạ già ruộng ngấu, không cắm cây mạ thì thôi, chứ cắm là mọc ngay cây lúa cho mà xem.

Sùng ông: Ông khoe con ông nữ tắc nữ công(16) nhỉ?

Mãng ông: Vâng thì cháu đủ nữ tắc nữ công đấy chứ!

Sùng ông: Đây này! (cầm con dao giơ vào mặt Mãng ông) Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này!

Mãng ông: Úi chao! Thật thế hở ông?

Sùng ông: Ông chưa mở mắt ra mà trông đấy à? (chỉ Thị Kính) Đấy, con ông đấy, ông đem về mà dạy bảo. Từ giờ trở đi, ông hãy bớt cái mồm mà khoe khoang, nữ tắc với chả nữ công. Về đi!

Mãng ông: Ông ơi! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với, ông ơi!

Sùng ông: Biết này!

(Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào. Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau than khóc.)

Mãng ông: Con ơi! Con ăn ở ra sao mà nên nông nỗi này hở con?

Thị Kính: Cha ơi! Oan cho con lắm cha ơi!

Mãng ông: Oan cho con lắm à?

(sử rầu rồi vãn) Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan

Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào!

Thôi sự tình về nhà nói cho cha mẹ biết. Dù oan, ngay, giờ biết kêu ai. Thôi đứng dậy về cùng cha, rồi cha liệu cho con. (Thị Kính dẫn cha đi một quãng, Mãng ông quay lại) Về cùng cha, con ơi!

(Thị Kính theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến cái sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay.)

Thị Kính: (hát sử rầu)

Thương ôi! Bấy lâu nay sắt cầm tịnh hảo(17)

Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi.

Nghĩ trách mình phận hẩm duyên ôi

Cho nên nỗi thế tình run rủi!

(nói thảm) Về cùng cha! Có trở về như vậy

Cũng không tránh khỏi tiếng mỉa mai.

Không, không, phải sống ở đời mới mong tỏ rõ người đoan chính…

(sử rầu tiếp) Con vọng bái nghiêm từ(18) tôn kính,

Con tìm nơi khuất mặt cho xong.

Trách lòng ai nỡ phụ lòng

Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi

Nhật nguyệt rạng soi

Thấu tình chăng nhẽ

Trước con lạy cha, sau con lạy mẹ

Thay áo quần giả dạng nam nhi

(hát ba than) Áo chít cài khuy

Nay tôi quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành.

Cầu Phật tổ chứng minh.

(Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng, hướng về phía chân trời chớm rạng đông thì màn từ từ khép lại.)

(Theo Đỗ Bình Trị – Hoàng Hữu Yên,

trong Văn tuyển văn học Việt Nam,

NXB Giáo dục, Hà Nội, 1983)

Chú thích:

(*) Chèo: loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ.

Tích truyện trong chèo được khai thác từ truyện cổ tích và truyện Nôm (Quan Âm Thị Kính, Từ Thức, Trương Viên, Kim Nham, Tống Trân – Cúc Hoa,… ) xoay quanh trục bĩ cực (đau khổ, oan trái) – thái lai (tốt đẹp, yên vui). Chèo chú ý giới thiệu những mẫu mực về đạo đức, tài năng để mọi người noi theo. Bên cạnh việc cảm thông với số phận bi kịch của người lao động, người phụ nữ, đề cao phẩm chất và tài năng của họ, chèo còn châm biếm, đả kích trực tiếp và mạnh mẽ những điều bất công, xấu xa trong xã hội phong kiến đương thời.

Chèo có một số loại nhân vật truyền thống với những đặc trưng tính cách riêng như: thư sinh thì nho nhã, điềm đạm; nữ chính: đức hạnh, nết na; nữ lệch: lẳng lơ, bạo dạn; mụ ác: tàn nhẫn, độc địa. Hề chèo là những vai hài mang đến tiếng cười thông minh, hả hê và sâu sắc cho người xem. Nhân vật chèo khi bước ra sân khấu, đầu tiên phải tự xưng danh (xưng tên, họ, quê quán, nghề nghiệp, tính cách), sau đó mới bước vào diễn tích. Tính chất ước lệ và cách điệu của sân khấu chèo thể hiện rất cao qua nghệ thuật hóa trang, nghệ thuật hát, múa của các nhân vật. Chẳng hạn, nhân vật lão thì mặc áo điều, quần lụa bạch, vận động trên sân khấu theo đường gãy khúc và đường tròn, điệu đi giật cục, chân lảo đảo, thường hát điệu bình tiểu. Nhân vật nữ chính mặc áo hồng lồng xa đen, vận động trên sân khấu theo góc vuông, đường thẳng, tư thế ngay thẳng, để quạt che kín đáo, thường hát điệu sử bằng. Còn nhân vật nữ lệch: dán cao ở thái dương, vận động theo đường lượn sóng khuếch đại quá mức, đảo mắt nhiều, dáng đi ưỡn ẹo, nhiều chuyển động đột ngột, thường hát điệu cấm giá, sắp chợt,…

(1) Soi kinh bóng quế: ý nói chăm đọc sách để thi đỗ.

(2) Hội long vân: ý nói thi của đỗ đạt (long: rồng, vân: mây, hội: gặp; rồng mây gặp nhau).

(3) Kỉ (tràng kỉ): ở đây là ghế kiểu cổ, thường có chạm khắc hình để trang trí.

(4) Công hầu: tước công và tước hầu, công hầu là chỉ chung các chức tước cao trong triều đình phong kiến.

(5) Phượng (chim phượng hoàng): chim tưởng tượng ra, có hình thù như chim trĩ và được xem là chúa của loài chim; công: chim quý hiếm, bộ lông màu lục ánh thép; đuôi con trống dài, có nhiều màu sắc đẹp, có thể xòe thẳng đứng và xếp theo hình nan quạt. Giống phượng giống công: chỉ dòng giống giàu có, cao quý.

(6) Mèo mả gà đồng: mèo ở mả, gà ở đồng, chỉ loài vật hoang hóa, không phải là những giống vật nuôi trong nhà, thành ngữ này dùng để chỉ những kẻ vô lại, thiếu giáo dục, ma mãnh, bịp bợm.

(7) Trên dâu dưới Bộc (hoặc “dưới Bộc trên dâu”): chỉ những cuộc tình bất chính (những ruộng dâu ở bãi sông Bộc thuộc tỉnh Sơn Đông – Trung Quốc là chỗ ngày xưa trai gái nước Trịnh và nước Vệ thường hẹn hò nhau tình tự).

(8) Bất trắc: việc xấu xảy ra khó lường trước được. Ở đây chỉ tính chất dối trá, phản phúc.

(9) Tam tòng tứ đức (tam: ba; tứ: bốn): thời phong kiến quan niệm phụ nữ phải tam tòng (“tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, tức là ở nhà phải theo (phụ thuộc) cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết thì theo con trai) và có tứ đức (“công, dung, ngôn, hạnh”, tức những tiêu chuẩn cần có về công việc, dung nhan, lời ăn tiếng nói và đức hạnh).

(10) Gươm trời búa nguyệt: chỉ sự trừng trị của ông trời (theo quan niệm mê tín)

(11) Bồng Báo: tức thông Bồng Thượng thuộc huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa), một vùng đất văn vật thời xưa, ngựa bất kham thường được đưa về đây để thuần hóa.

(12) Cầu Nôm: thuộc huyện Văn Lâm (Hưng Yên) ngày nay, có nghề đúc đồng.

(13) Trứng rồng lại nở ra rồng: chỉ dòng dõi cao quý, giàu có, tiếp nối nhau.

(14) Liu điu: rắn nhỏ có nọc độc, sống ở ao hồ, ăn ếch nhái; ở đây chỉ dòng giống hèn mọn, thấp kém.

(15) Cao môn lệnh tộc: chỉ nơi giàu có, quyền thế.

(16) Nữ tắc nữ công: (giỏi giang, gương mẫu về) công việc và đạo đức, theo quan niệm xưa đối với người phụ nữ.

(17) Sắt cầm tịnh hảo: ý nói tình vợ chồng hòa hợp (sắt, cầm là hai thứ đàn cổ).

(18) Nghiêm từ: cha mẹ, nói một cách đầy đủ là nghiêm phụ, từ mẫu (quan niệm chung ngày xưa cho rằng người cha cần nghiêm khắc, người mẹ cần hiền từ).

Hướng dẫn soạn bài – Quan Âm Thị Kính

I. Về tác giả tác phẩm

1. Thể loại

Chèo là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn gọi là chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ.

2. Tác phẩm

Văn bản Quan Âm Thị Kính là phần lời (kịch bản) của một vở chèo – một loại hình văn nghệ dân gian kết hợp nhiều hình thức như hát, múa, diễn tích, kể chuyện,… được trình bày trên sân khấu (còn gọi là chiếu chèo).

Tuy chỉ là kịch bản sân khấu nhưng Quan Âm Thị Kính (và trích đoạn Nỗi oan hại chồng) cũng thể hiện được những giá trị nghệ thuật nhất định, phần nào giúp chúng ta hiểu được những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo, nhất là về nội dung tư tưởng: những vấn đề mà vở chèo nêu ra, những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội cũ, nỗi khổ của người phụ nữ,…

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng thể hiện những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.

Từ nội dung của vở chèo, thành ngữ “Oan Thị Kính” dùng để nói về những nỗi oan ức quá mức và không thể nào giãi bày được.

II. Bố cục:

– Phần 1 (từ đầu đến “thiếp xén tày một mực”): Thị Kính xén chiếc râu mọc ngược dưới cằm cho chồng.

– Phần 2 (tiếp theo đến “về cùng cha con ơi”): Nhà chồng một mực vu cho Thị Kính giết chồng, nàng không thể minh oan, cùng cha là Mãng ông trở về nhà.

– Phần 3 (đoạn còn lại): Thị Kính từ biệt cha mẹ, quyết định giả dạng nam nhi tu hành.

III. Tóm tắt

Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính tha hồ van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc hai bố con ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.

IV. Hướng dẫn soạn bài Quan Âm Thị Kính chi tiết

Giải câu 1 (Trang 120 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Đọc kĩ tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính.

Trả lời:

Tóm tắt:

Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm

Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.

Giải câu 2 (Trang 120 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Đọc kĩ trích đoạn Nỗi oan hại chồng và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó.

Trả lời:

Đọc kĩ đoạn trích và xem chú thích.

Giải câu 3 (Trang 120 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có mấy nhân vật? Những nhân vật nào là nhân vật chính thể hiện xung đột kịch? Những nhân vật đó thuộc các loại vai nào trong chèo và đại diện cho ai?

Trả lời:

Trong đoạn trích có năm nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.

– Nhân vật Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật tạo xung đột chính của đoạn trích:

+ Sùng bà: kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị thời phong kiến.

+ Thị Kính: nhân vật nữ chính, tiêu biểu cho người dân thường, vốn chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ.

Giải câu 4 (Trang 120 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Khung cảnh ở phần đầu trích đoạn là khung cảnh gì? Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính ở đây, em có nhận xét gì về nhân vật này?

Trả lời:

Cảnh đầu đoạn trích là cảnh Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc sách.

→ Gợi lên không khí đầm ấm, hạnh phúc.

– Cử chỉ và lời nói của nhân vật Thị Kính:

+ Thị Kính dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng ngủ.

+ Thị Kính chăm chú nhìn chồng và phát hiện sợi râu mọc ngược.

+ Thị Kính lấy dao định xén chiếc râu đó.

→ Hành động của Thị Kính hết sức tự nhiên, chứng tỏ tình cảm chân thành và hết mực yêu chồng.

Giải câu 5 (Trang 120 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Thảo luận ở lớp: Hãy liệt kê và nêu nhận xét của em về hành động và ngôn ngữ của Sùng bà đối với Thị Kính.

Trả lời:

Hành động và ngôn ngữ Sùng bà là hiện lên là người kẻ tàn nhẫn, độc ác, coi thường người lao động hiền lành:

– Hành động:

+ Dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên ( kiểu hạ nhục người khác).

+ Chửi mắng Thị Kính, không cho nàng được thanh minh.

+ Hất tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống đất, nhất quyết trả Thị Kính về gia đình.

– Lời nói:

+ Đay nghiến, nhiếc mắng Thị Kính.

+ Lời mắng nhiếc của Sùng bà luôn nhấn mạnh tới sự đối lập đến giai cấp, sự không “môn đăng hộ đối” giữa hai gia đình.

→ Mụ Sùng là người tàn nhẫn, độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên nên bà coi thường người khác, nhất là người lao động.

Giải câu 6 (Trang 120 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Trong trích đoạn, có mấy lần Thị Kính kêu oan? Kêu với ai? Khi nào lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông? Em có nhận xét gì về sự cảm thông đó?

Trả lời:

Thị Kính kêu oan 5 lần:

– 4 lần kêu oan đầu tiên đến mẹ chồng và chồng (Oan con lắm mẹ ơi! Oan cho thiếp lắm chàng ơi!).

+ Lời kêu oan không được thấu tỏ do:

+ Thiện Sĩ là kẻ bạc nhược, đớn hèn còn mụ Sùng thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính.

– Lần thứ năm lời kêu oan của Thị Kính nhận được sự cảm thông, thấu hiểu của Mãng ông.

+ Mãng ông dù biết con gái bị oan nhưng chỉ là người nông dân nghèo không thể giúp đỡ con gái.

Giải câu 7 (Trang 120 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Thảo luận ở lớp: Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông còn làm điều gì tàn ác? Theo em, xung đột kịch trong trích đoạn này thể hiện cao nhất ở chỗ nào? Vì sao?

Trả lời:

– Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, mụ Sùng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho cha con Thị Kính nhục nhã, ê chề.

+ Lừa Mãng ông sang “ăn cữ cháu” sau đó vu oan cho Thị Kính “nửa đêm cầm dao giết chồng”.

+ Gọi Mãng ông sang sau đó dúi ngã Mãng ông để cự tuyệt quan hệ thông gia và bỏ vào nhà.

– Hình ảnh hai cha con ôm nhau của những người chịu oan, đau khổ hoàn toàn bất lực.

→ Tình cảnh thống khổ của những người nông dân nghèo trước sự cay nghiệt của bọn thống trị.

Giải câu 8 (Trang 120 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Qua cử chỉ và ngôn ngữ nhân vật, hãy phân tích tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà. Việc Thị Kính quyết tâm “trá hình nam tử bước đi tu hành” có ý nghĩa gì? Đó có phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ không?

Trả lời:

Tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà nàng hát:

“Thương ôi… gối lẻ loi”.

– Các cặp từ đối lập bấy lâu – bỗng, sắt cầm – chăn gối lẻ loi…: sắc thái ý nghĩa đối lập diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau chuyển đổi đột ngột.

+ Từ cuộc sống hòa hợp đầm ấm đến tình cảnh chia lìa.

→ Bị đẩy khỏi thế giới quen thuộc, người phụ nữ bỗng hóa bơ vơ giữa cái vô định giữa cái vô định cuộc đời.

– Thị Kính giả trai vào tu trong chùa càng khẳng định nàng không có lối thoát.

+ Quan niệm về định mệnh, cho rằng sự khổ cực là do số kiếp nên quay về cửa Phật tìm lối giải thoát, tu tâm tích đức.

Soạn phần luyện tập bài Quan Âm Thị Kính

Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 121 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Tóm tắt ngắn gọn trích đoạn Nỗi oan hại chồng.

Trả lời:

Tóm tắt:

Thiện Sĩ ngồi đọc sách thì thiu thiu ngủ, Thị Kính ngồi khâu bên cạnh nhìn thấy chồng có chiếc râu mọc ngược thì lấy dao khâu định xén đi. Thiện Sĩ chợt tỉnh thì hô toáng lên. Rồi mặc cho Thị Kính hết lời van xin, Sùng ông, Sùng Bà đánh đuổi Thị Kính về nhà Mãng ông. Sau khi làm cho hai bố con Mãng ông nhục nhã, khổ sở hai vợ chồng nhà Sùng bỏ vào nhà mặc cho hai bố con ôm nhau khóc rồi đưa nhau về.

Giải câu 2 – Luyện tập (Trang 121 SGK ngữ văn 7 tập 2)

Thảo luận ở lớp: Nêu chủ đề của trích đoạn Nỗi oan hại chồng. Em hiểu thế nào là thành ngữ “Oan Thị Kính”?

Trả lời:

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng thể hiện những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, nghiệt ngã của người phụ nữ đối lập giai cấp:

– Thành ngữ “Oan Thị Kính” để nói về nỗi oan khiên không thể giãi bày, thanh minh.

– Mở đầu trích đoạn là khung cảnh gia đình ấm cúng, lời nói và cử chỉ của Thị Kính làm bật lên hình ảnh người phụ nữ.

– Thị Kính rời khỏi nhà Sùng bà trong mối đau khổ và bất lực, tan vỡ hạnh phúc.

– Thị Kính giả trai đi tu, vừa để tự thanh minh vừa để thoát tục.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Quan Âm Thị Kính

Câu 1. Đọc kĩ tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính.

Trả lời:

Tóm tắt:

Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính tha hồ van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc hai bố con ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.

 Câu 2. Đọc kĩ trích đoạn Nỗi oan hại chồng và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó.

Trả lời:

Đọc kĩ đoạn trích và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó, các từ cổ hiện ít dùng.

Câu 3. Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có mấy nhân vật? Những nhân vật nào là nhân vật chính thể hiện xung đột kịch? Những nhân vật đó thuộc các loại vai nào trong chèo và đại diện cho ai?

Trả lời:

Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Cả năm nhân vật đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch, trong đó Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật chính, thể hiện xung đột cơ bản của vở chèo:

– Sùng bà thuộc kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến.

– Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính (mụ ác và nữ chính là hai loại nhân vật rất tiêu biểu, thường xuất hiện trong chèo). Thị Kính tiêu biểu cho người dân thường, nhất là cho người phụ nữ vốn phải chịu nhiều thua thiệt trong xã hội cũ.

Câu 4. Khung cảnh ở phần đầu trích đoạn là khung cảnh gì? Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính ở đây, em có nhận xét gì về nhân vật này?

Trả lời:

Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng, tuy không gần gũi và phổ biến với nhân dân như cảnh “thiếp nón, chàng tơi”, “chồng cày, vợ cấy” nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình của nhân dân.

Qua lời và cử chỉ của Thị Kính, ta thấy Thị Kính rất ân cần, dịu dàng với chồng: khi chồng ngủ, dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng; thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng thì băn khoăn lo lắng về sự dị hình chẳng lành.

→ Thị Kính là người vợ thương chồng. Tình cảm đối với chồng rất chân thật, tự nhiên.

Câu 5. Thảo luận ở lớp: Hãy liệt kê và nêu nhận xét của em về hành động và ngôn ngữ của Sùng bà đối với Thị Kính.

Trả lời:

Cả trong hành động và ngôn ngữ, Sùng bà đều chứng tỏ là một kẻ tàn nhẫn, độc ác, không những thế lại còn coi thường những người lao động nghèo khổ.

– Về hành động: Sùng bà dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên (một kiểu hạ nhục người khác). Sùng bà không cho Thị Kính được phân bua, thanh minh cho mình, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình.

– Về ngôn ngữ: Sùng bà đay nghiến, mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều quan trọng nhất là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không phải là lời mắng của mẹ đối với con, cũng không phải là của một bà mẹ chồng đối với con dâu của mình.

Lời lẽ, hành động của Sùng bà chứng tỏ mụ là người tàn nhẫn và độc ác, không những thế lại còn hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, dẫn đến coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Điều đó cho thấy Sùng bà tức giận, chửi mắng Thị Kính thậm tệ không hẳn vì nghĩ rằng Thị Kính có ý làm hại con mụ mà vì sự chênh lệch đẳng cấp xã hội giữa hai gia đình. Thị Kính là con nhà nghèo mà lại dám bước vào, hơn thế nữa lại là nàng dâu, trở thành người trong gia đình mụ.

Câu 6. Trong trích đoạn, có mấy lần Thị Kính kêu oan? Kêu với ai? Khi nào lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông? Em có nhận xét gì về sự cảm thông đó?

Trả lời:

Trong trích đoạn, năm lần Thị Kính kêu oan. Trong đó có bốn lần tiếng kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng:

– Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ!

– Oan cho con lắm mẹ ơi!

– Oan cho thiếp lắm chàng ơi!

– Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

Bốn lần kêu oan trôn đều vô ích. Chồng nhu nhược, mẹ chồng cay nghiệt nên càng kêu, nỗi oan của nàng ngày càng đầy.

Lần kêu oan thứ năm, lần cuối là kêu với Mãng ông (cha đẻ). Thị Kính mới nhận được sự thông cảm. Nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội, ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái. Cuối cùng nỗi oan không được giải và Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà chồng.

Câu 7. Thảo luận ở lớp: Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông còn làm điều gì tàn ác? Theo em, xung đột kịch trong trích đoạn này thể hiện cao nhất ở chỗ nào? Vì sao?

Trả lời:

Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng ông và Sùng bà còn làm một điều tàn ác là: dựng lên một vở kịch lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, thực ra bắt ông sang nhận con về, làm cho cha con Mãng ông nhục nhã. Hơn thế, còn thể hiện bằng những hành động vũ phu với cha con họ.

Đây là chỗ xung đột kịch tập trung cao nhất. Trên sân khấu chỉ còn lại hai cha con lẻ loi. Thị Kính thì bị đẩy vào chỗ cực điểm của nỗi đau: gia đình chồng nghi oan, hạnh phúc tan vỡ, cha ruột bị hành hạ, khinh bỉ. Hình ảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những người chịu oan, đau khổ mà hoàn toàn bất lực. Đó là bi kịch điển hình của những người dân nghèo, nhất là những người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ.

Câu 8. Qua cử chỉ và ngôn ngữ nhân vật, hãy phân tích tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà. Việc Thị Kính quyết tâm “trá hình nam tử bước đi tu hành” có ý nghĩa gì? Đó có phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ không?

Trả lời:

Khi Mãng ông bảo Thị Kính về theo mình, Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay.

Cử chỉ và lời hát của Thị Kính thể hiện rất nhiều ý nghĩa:

Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo

Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi…

Qua cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà: đau đớn vì bằng chứng của tình thủy chung bây giờ là dấu vết của sự thất tiết. Thị Kính đang bơ vơ trước cái vô định của cuộc đời, không biết sẽ về đâu?

Việc Thị Kính “trá hình nam tử đi tu hành” có ý nghĩa là giải thoát. Con đường giải thoát có hai mặt:

– Tích cực: muốn sổng ở đời để tỏ rõ con người đoan chính.

– Tiêu cực: cho rằng mình khổ do số kiếp, tìm cửa Phật để tu tâm.

Đây không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ vì người phụ nữ này chưa đủ bản lĩnh vượt lên hoàn cảnh, cam chịu bằng sự chịu đựng nhẫn nhục. Thị Kính có đấu tranh nhưng mới chỉ dừng ở những lời trách móc số phận và ước muôn “nhật nguyệt sáng soi”.

Soạn phần luyện tập bài Quan Âm Thị Kính trang 121 SGK ngữ văn 7 tập 2

Bài 1. Tóm tắt ngắn gọn trích đoạn Nỗi oan hại chồng.

Trả lời:

Vào một buổi tối, Thiện Sĩ đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi may vá bên cạnh rồi quạt cho chồng. Trong lúc đó, nàng đã phát hiện ra dưới cằm chồng có cái râu mọc ngược. Nàng nghĩ đây là điềm chẳng lành, nên đã cầm dao khâu định xén nó đi. Chưa kịp xén thì Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy và hô hoán lên. Sùng ông và Sùng bà vốn không ưa Thị Kính nên đã đay nghiến, mắng nhiếc và đổ cho Thị Kính tội giết chồng. Mặc cho Thị Kính một mặt kêu oan, van xin nhưng Sùng ông và Sùng bà đã gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang và làm cho hai cha con phải nhục nhã, khổ sở. Quá đau khổ vì uất ức, Thị Kính lạy cha mẹ rồi giả trai, chọn kiếp tu hành, nương nhờ ở cửa Phật.

Bài 2. Thảo luận ở lớp: Nêu chủ đề của trích đoạn Nỗi oan hại chồng. Em hiểu thế nào là thành ngữ “Oan Thị Kính”?

Trả lời:

Chủ đề của đoạn trích nỗi oan hại chồng: đoạn trích thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của Thị Kính và những nỗi oan, bế tắc của nàng cũng như của không ít người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó phản ánh những đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến. Thành ngữ “Oan Thị Kính” đã được phổ biến rộng rãi trong đời sống hằng ngày của nhân dân lao động. Mọi người dùng thành ngữ này để nói lên những nỗi oan khuất quá mức, cùng cực không thể nào giải toả được của con người nói chung.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status