Soạn bài Những đứa trẻ (trích Thời thơ ấu) trang 228 – 233 SGK ngữ văn lớp 9 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Những đứa trẻ (trích Thời thơ ấu – M.Go-rơ-ki), sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
NHỮNG ĐỨA TRẺ(*)
(Trích Thời thơ ấu)
Có đến gần một tuần(1) không thấy ba anh em nhà ấy(2) ra sân chơi, nhưng sau đó chúng lại xuất hiện, ồn ào hơn trước. Thằng anh lớn nhìn thấy tôi(3) trên cây(4), nó gọi, giọng thân mật:
– Xuống đấy chơi với chúng tớ!
Chúng tôi trèo lên cái xe trượt tuyết(5) cũ để ở dưới mái hiên nhà kho rồi vừa ngắm nghía nhau, vừa nói chuyện rất lâu.
– Các cậu có bị ăn đòn không?(6)
– Có – Thằng anh lớn trả lời.
Tôi thấy khó mà tin được rằng những đứa trẻ này cũng bị đánh đòn như tôi(7), tôi thấy tức thay cho chúng.
– Sao anh lại bắt chim? – Thằng bé nhất hỏi.
– Vì chúng nó hót hay lắm.
– Không nên bắt, cứ để cho chúng muốn bay đi đâu thì bay.
– Được, mình sẽ không bắt nữa!
– Nhưng anh hãy bắt cho em một con đã.
– Em muốn chim gì?
– Chim gì hót vui ấy. Để nhốt vào lồng.
– Thế thì chim bạch yến (8) nhé?
– Mèo nó bắt mất – Thằng thứ hai nói – Mà bố cũng chẳng cho nuôi.
Thằng anh lớn tán thành:
– Đúng đấy, bố chẳng cho nuôi đâu…
– Thế các cậu có mẹ không?
– Không – Thằng anh lớn đáp.
Nhưng thằng thứ Hai chữa lại:
– Có, nhưng là mẹ khác, không phải là mẹ chúng tớ, chúng tớ không còn mẹ, mẹ chúng tớ chết rồi.
– Mẹ khác thì gọi là dì ghẻ – tôi nói.
Thằng anh lớn gật đầu:
– Ừ.
Và cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt sầm lại.
Qua những truyện cổ tích của bà tôi, tôi đã biết thế nào là dì ghẻ, nên tôi rất thông cảm với sự im lặng, nghĩ ngợi của bọn nó. Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con. Tôi nhớ lại truyện mụ dì ghẻ phù thuỷ đã dùng mưu đánh lừa để giả làm mẹ thật, tôi liền bảo chúng:
– Mẹ thật của các cậu thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem!
Thằng anh lớn nhún vai:
– Chết rồi cơ mà, về làm sao được…
Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả(9) ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép(10) là sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy.
Tôi bèn kể lại một cách sôi nổi cho chúng nghe những câu chuyện của bà tôi. Lúc đầu, thằng anh lớn chỉ mỉm cười, sau đó nhẹ nhàng bảo:
– Những chuyện ấy chúng tớ biết cả rồi, đấy là những truyện cổ tích…
Hai em nó im lặng nghe, thằng bé nhất mím chặt môi và phồng má lên, còn thằng kia thì chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia quàng lên vai em nó, ấn em nó xuống.
Trời đã bắt đầu tối, những đám mây đỏ treo lơ lửng trên các mái nhà, bỗng trước mắt chúng tôi hiện ra một ông già(11) với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài thùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu, đội chiếc mũ xù lông.
– Đứa nào đây? – Ông ta hỏi và chỉ vào tôi.
Thằng anh lớn đứng dậy, hất đầu về phía nhà ông nói:
– Nó ở … bên kia sang …
– Đứa nào gọi nó sang?
Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn(12).
Ông già nắm chặt lấy vai tôi và dẫn tôi qua sân ra cổng; ông ta làm tôi sợ đến phát khóc, nhưng ông bước dài và nhanh đến nỗi tôi chưa kịp khóc òa lên thì đã ở ngoài đường rồi, còn ông ta đứng trước cổng, giơ ngón tay dọa tôi và nói:
– Cấm không được đến nhà tao!
[…] Tôi vẫn tiếp tục chơi với mấy đứa trẻ ấy và cảm thấy rất vui thích. Trong một ngách hẹp giữa bức tường nhà tôi và hàng rào nhà Ốp-xi-an-ni-cốp có một cây du, một cây bồ đề và bụi hương mộc rậm rạp. Nấp sau bụi cây đó, tôi khoét một lỗ hổng hình bán nguyệt ở hàng rào, mấy thằng bé, lần lượt từng đứa hay hai đứa một, lại gần, và chúng tôi ngồi xổm hoặc quỳ nói chuyện khe khẽ với nhau. Một đứa trong số ba anh em chúng phải luôn đứng canh để đề phòng ông đại tá bất chợt bắt gặp chúng tôi.Chúng kể cho tôi nghe cuộc sống buồn tẻ của chúng, và những chuyện đó làm tôi buồn lắm; chúng kể cho tôi nghe về những con chim tôi bẫy được đang sống ra sao và những chuyện trẻ con khác, nhưng tôi nhớ lại thì chưa bao giờ chúng nói một lời nào về bố và về dì ghẻ. Thường thì chúng chỉ đề nghị tôi kể truyện cổ tích; tôi kể lại những truyện bà tôi đã kể, và nếu quên chỗ nào, tôi bảo chúng đợi, rồi chạy về nhà hỏi lại bà tôi. Thấy thế bà tôi thường rất hài lòng.
Tôi kể cho chúng nghe nhiều về bà tôi; một hôm thằng lớn thở dài nói:
– Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt…
Nó thường nói một cách buồn bã: ngày trước, trước kia, đã có thời… dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm chứ không phải mười một năm. Tôi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất dễ thương, tôi tin yêu lắm, tôi luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lớn hơn cả…
(M. Go-rơ-ki(*), Thời thơ ấu, theo bản dịch
của Trần Khuyến – Cẩm Tiêu, NXB Văn học, Hà Nội, 1976.
Tên bài do NBS đặt)
Chú thích:
(*) Mác-xim Go-rơ-ki (1868 – 1936) là bút danh của A–lếch–xây Pê-scốp, một trong những nhà văn lớn của Nga và của thế giới trong thề kỉ XX. Pê-scốp mồ côi bố khi mới ba tuổi và sống với ông bà ngoại; lớn lên, lại phải đi làm rất nhiều nghề để kiếm ăn. Bút danh “Go-rơ-ki”, theo tiếng Nga, có nghĩa là “cay đắng”. Co-rơ-ki là tác giả của bộ ba tiểu thuyết tự thuật, loại tiểu thuyết nhà văn dùng ngôi thứ nhất (xưng “tôi”) kể chuyện đời mình: Thời thơ ấu (1913 – 1914), Kiếm sống (1916), Những trường đại học của tôi (1923). Một tác phẩm quan trọng khác của ông là Người mẹ (1906 – 1907), tiểu thuyết viết về sự chuyển biến tư tưởng của nhân vật chính, một bà mẹ Nga, về phía chủ nghĩa xã hội.
Văn bản Những đứa trẻ trích ở chương IX tác phẩm Thời thơ ấu (gồm mười ba chương). Dạo ấy, dưới thời Nga hoàng, A-li-ô-sa (tên thân mật thường gọi ở nhà của Mác-xim Go-rơ-ki) ở với ông bà ngoại vì bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng khác. Bên hàng xóm là nhà ông đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp đã già, sống với người vợ kế và ba đứa con nhỏ mồ côi mẹ khoảng trên dưới mười tuổi, trạc tuổi với A-li-ô-sa. Do tình cờ có lần A-li-ô-sa cùng hai đưa con lớn của ông đại tá kéo dây gàu lên cứu được thằng nhỏ chơi nghịch nhảy vào gàu rơi xuống giếng, nên mấy đứa trẻ chơi thân với A-li-ô-sa, bất chấp sự cấm đoán của bố. Đoạn trích Những đứa trẻ tiếp theo sự kiện ấy.
(1) Sau sự kiện thằng bé ngã xuống giếng (xem chú thích *).
(2) Ba đứa trẻ con đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp (xem chú thích *)
(3) Nhân vật người kể chuyện; ở đây là Mác-xim Go-rơ-ki.
(4) Cái cây bên nhà A-li-ô-sa sát ngay hàng rào nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp.
(5) Xe trượt tuyết: loại xe không có bánh, di chuyển bằng cách trượt trên tuyết ở những miền băng giá.
(6) Bị đòn vì chơi đùa nghịch ngợm để thằng em ngã xuống giếng.
(7) Ông ngoại của A-li-ô-sa là người rất khó tính, nên A-li-ô-sa thường bị đe nẹt và ăn đòn một cách oan uổng.
(8) Chim bạch yến: loài chim yến lông trắng muốt, hót rất hay.
(9) Xả: chặt ra thành từng mảnh lớn (thường nói về thịt gia súc).
(10) Nước phép: loại nước uống có thể làm cho người chết sống lại (theo mê tín hoặc trong các truyện dân gian).
(11) Đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp, bố của ba đứa trẻ.
(12) Ở đoạn trước khi xảy ra chuyện thằng bé bị ngã xuống giếng, A-li-ô-sa đang ngồi trên cành cây nhìn mấy đứa trẻ chơi ngoài sân thì nghe tiếng đại tá ở trong nhà gọi các con vào, Go-rơ-ki kể: “Chúng thong thả và ngoan ngoãn đi vào hệt như những chú ngỗng”.
Hướng dẫn soạn bài – Những đứa trẻ
I. Tóm tắt
Đoạn trích Những đứa trẻ là câu chuyện về tình bạn khăng khít giữa A-li-ô-sa với ba đứa trẻ thiếu thốn tình thương là ba anh em ở nhà hàng xóm. Chúng đã cùng đùa chơi với nhau, cùng kể cho nhau nghe những câu chuyện, trở nên thân thiết bất chấp những rào cản trong quan hệ xã hội, bởi gia đình của A-li-ô-sa chỉ là một gia đình bình dân, con ba đứa trẻ kia là con cái nhà giàu, có địa vị cao trong xã hội.
II. Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến “ấn em nó cúi xuống”): Tình bạn thân thiết giữa bốn đứa trẻ qua những câu chuyện chúng chia sẻ cho nhau.
– Phần 2 (tiếp theo đến “cấm không được đến nhà tao”): Tình bạn của những đứa trẻ bị ngăn cấm bởi ông của ba đứa trẻ nhà giàu.
– Phần 3 (đoạn còn lại): Những câu chuyện và tình bạn giữa những đứa trẻ vẫn tiếp tục bất chấp sự ngăn cản.
II. Hướng dẫn soạn bài Những đứa trẻ chi tiết
Giải câu 1 (Trang 233 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Thử chia bài văn này thành ba phần và đặt tiêu đề cho mỗi phần. Tìm những chi tiết xuất hiện ở cả phần 1 và phần 3 tạo nên sự kết nối chặt chẽ.
Trả lời:
– Phần 1 (từ đầu đến ấn em nó xuống cúi): Tình bạn tuổi thơ hồn nhiên.
– Phần 2 (tiếp đến cấm không được đến nhà tao): Tình bạn bị cấm đoán.
– Phần 3: Tình bạn vẫn cứ tiếp tục tiếp diễn.
Những chi tiết xuất hiện ở phần 1 và phần 3 tạo nên sự kết nối chặt chẽ: ba đứa trẻ hàng xóm, chuyện về những con chim, những chuyện cổ tích, chuyện về người bà hiền hậu lại xuất hiện ở phần ba tạo nên sự kết nối chặt chẽ, gây ấn tượng người đọc.
Giải câu 2 (Trang 233 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Xem xét hoàn cảnh của chú bé A-li-ô-sa, ba đứa con của đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp và quan hệ giữa hai gia đình để lí giải vì sao tình bạn tuổi thơ trong trắng ấy để lại ấn tượng sâu sắc cho nhà văn, khiến hơn ba mươi năm sau ông vẫn còn như in và thuật lại hết sức xúc động.
Trả lời:
Nhà ông ngoại của bé A – li – ô – sa ở ngay cạnh nhà của đại tá Ốp – xi – an – ni- cốp nhưng lại có sự khác biệt về giai cấp, giàu nghèo và bị lão đại tá cấm đoán.
Nhưng chúng vẫn tìm đến nhau bằng tình bạn hồn nhiên, trong sáng. Bởi giữa chúng còn có một sợi dây liên kết giữa chúng đó là chúng đều là những đứa trẻ đáng thương, sống trong sự thiếu thốn tình thương. A – li – ô – sa mồ côi cha, mẹ đi lấy chồng , còn ba đứa trẻ mồ côi mẹ, phải sống với một ông bố cực kì nghiêm khắc với bà mẹ kế.
⇒ Sự gặp gỡ tự nhiên của những đứa trẻ cùng chung cảnh ngộ, trở thành những người bạn thân thiết tạo nên một tình bạn trong trắng để lại ấn tượng sâu sắc cho nhà văn, khiến hơn ba mươi năm sau ông vẫn còn nhớ như in và thuật lại hết sức sống động.
Giải câu 3 (Trang 233 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Tìm trong bài văn rồi phân tích, bình luận một số hình ảnh của ba đứa trẻ hàng xóm qua sự cảm nhận tinh tế của A-li-ô-sa.
Trả lời:
Những quan sát, cảm nhận tinh tế của A – li – ô – sa:
– Trước khi thân quen: chưa hiểu gì về chúng chưa phân biệt được đứa này, đứa kia chỉ có thể biết qua tầm vóc.
– Khi thân quen:
+ Khi nói tới mụ dì ghẻ: “chúng ngồi sát vào nhau như những chú gà con”.
→ Hình ảnh so sánh diễn tả nỗi sợ hãi của những đứa trẻ khia nhắc tới mụ dì ghẻ. Hay ” tức thì cả mấy đứa trẻ… những con ngỗng ngoan ngoãn” cách so sánh chính xác thể hiện sự lặng lẽ, nhút nhát, cam chịu của những đứa trẻ.
⇒ Niềm cảm thông của trước cuộc sống thiếu thốn tình thương của những đứa trẻ.
Giải câu 4 (Trang 233 SGK ngữ văn 9 tập 1)
Chuyện đời thường và truyện cổ tích được lồng vào nhau trong nghệ thuật kể chuyện của Go-rơ-ki như thế nào qua các chi tiết liên quan đến những người mẹ và những người bà trong bài văn này?
Trả lời:
Chuyện đời thường và chuyện cổ tích được lồng vào nhau trong nghệ thuật kể chuyện của Go – rơ – ki được thể hiện qua các chi tiết liên quan đến những người mẹ và những người bà trong văn bản: khi những đứa trẻ nói về mẹ thật A – li ô sa có những suy tưởng như độc thoại nội tâm, lạc ngay vào chuyện cổ tích. Đặc biệt hình ảnh người bà có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của những đứa trẻ. Đối với các em, bà gắn liền với thế giới cổ tích, là hiện thân lòng tốt, tình yêu thương. Mặc dù cùng hoàn cảnh nghèo khổ nhưng A – li ô sa vẫn còn may mắn hơn bọn trẻ vì có tình yêu thương của bà, tình cảm ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn tình cảm của cậu bé giúp cậu có thêm nghị lực, niềm tin vào cuộc đời.
⇒ Nghệ thuật kể chuyện đan xen giữa truyện cổ tích và đời thường trong tác phẩm đã làm tăng thêm giá trị hiện thực và nhân văn của đoạn trích nói riêng và tác phẩm “Thời thơ ấu” nói chung.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Những đứa trẻ (trích Thời thơ ấu – M.Go-rơ-ki)
Câu 1. Thử chia bài văn này thành ba phần và đặt tiêu đề cho mỗi phần. Tìm những chi tiết xuất hiện ở cả phần 1 và phần 3 tạo nên sự kết nối chặt chẽ.
Trả lời:
Chia bài văn thành ba phần:
– Phần 1: Từ đầu đến “ấn em nó cúi xuống”: Tình bạn tuổi thơ trong trắng.
– Phần 2: Từ “Trời bắt đầu tối” đến “Cấm không được đến nhà tao”: Tình bạn bị cấm đoán.
– Phần 3: Còn lại: Tình bạn vẫn cứ tiếp diễn.
Những chi tiết xuất hiện ở phần một: Ba đứa trẻ hàng xóm, chuyện về những con chim, những câu chuyện cổ tích, chuyện về người bà hiền hậu lại xuất hiện ở phần ba tạo nên sự kết nối chặt chẽ, gây ấn tượng lắng đọng ở người đọc.
Câu 2. Xem xét hoàn cảnh của chú bé A-li-ô-sa, ba đứa con của đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp và quan hệ giữa hai gia đình để lí giải vì sao tình bạn tuổi thơ trong trắng ấy để lại ấn tượng sâu sắc cho nhà văn, khiến hơn ba mươi năm sau ông vẫn còn như in và thuật lại hết sức xúc động.
Trả lời:
Ông bà ngoại của A-li-ô-sa là hàng xóm của đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp, nhưng hai gia đình lại có địa vị xã hội khác nhau, điều đó tạo ra bức tường ngăn cách mối quan hệ tự nhiên giữa những đứa trẻ. Nhìn sang hàng xóm, A-li-ô-sa chỉ biết “Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ phân biệt được chúng theo tầm vóc”.
Do tình cờ, A-li-ô-sa góp sức cứu đứa trẻ – con của gia đình đại tá rơi xuống giếng nên ba đứa trẻ nhà đại tá rủ A-li-ô-sa sang chơi. Hoàn cảnh sống thiếu tình thương đã tạo nên tình bạn trong sáng giữa các bạn nhỏ.
Khi mấy đứa trẻ kể về chuyện mẹ chết, “chúng ngồi sát vào nhau giống như những chú gà con”. Hình ảnh đó rất giàu sức gợi.
Câu 3. Tìm trong bài văn rồi phân tích, bình luận một số hình ảnh của ba đứa trẻ hàng xóm qua sự cảm nhận tinh tế của A-li-ô-sa.
Trả lời:
Phân tích, bình luận một số hình ảnh của ba đứa trẻ hàng xóm qua sự cảm nhận tinh tế của A – li – ô – sa. Những quan sát và nhận xét tinh tế:
– Trước khi quen thên nhìn sang hàng xóm, A – li – ô – sa chỉ biết: “Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt sáng và giống nhau đến nỗi mình chủ có thể phân biệt được chúng theo tầm vóc.
– Khi mấy đứa trẻ kể chuyện mẹ chết, chỉ còn dì ghe mà chúng gọi là “Mẹ khác” rồi lặng đi, Gor-ki kể: “Chúng ngồi sát vào nhau giống như chú gà con”. Sự so sánh ấy cũng toát lên niềm thông cảm của A-li-ô-sa với nỗi bất hạnh của các bạn nhỏ.
– Khi đại tá Ốp-xi-a-ni-cốp bất chợ xuất hiện, quát mắng thì chúng “Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà, khiến mình lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn”. Rõ ràng chúng bị bố áp chế, lằng lặng vào nhà chẳng dám hé răng. A – li – ô – sa thông cảm với cuộc sống thiếu tình thương của các bạn nhỏ biết bao.
Câu 4. Chuyện đời thường và truyện cổ tích được lồng vào nhau trong nghệ thuật kể chuyện của Go-rơ-ki như thế nào qua các chi tiết liên quan đến những người mẹ và những người bà trong bài văn này?
Chuyện đời thường và vườn cổ tích được lồng vào nhau trong nghệ thuật kể chuyện của Gor-ki.
Đoạn trích thể hiện đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện đan xen giữa chuyện dời thường và truyện cổ tích. Thông qua chi tiết về “dì ghẻ”, khi mấy đứa trẻ hàng xóm nhắc đến “mẹ khác”, A-li-ô-sa liên tưởng ngay đến nhân vật mụ dì ghẻ độc ác trong truyện cổ tích. Khi những đứa trẻ nói về “mẹ thật”, A-li-ô-sa cũng có những suy tưởng như độc thoại nội tâm, lạc ngay vào không khí truyện cổ tích. Chi tiết người bà nhân hậu cũng được kể lại bằng giọng của truyện cổ tích: “ngày trước, trước kia, đã có thời”,…
Nghệ thuật kể chuyện đan xen giữa chuyện dời thường và truyện cổ tích của Mác-xim Go-rơ-ki đã giúp cho đoạn trích “Những đứa trẻ” nói riêng và tác phẩm “Thời thơ ấu” nói chung trở nên sinh động và hấp dẫn.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment