Soạn bài – Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh

Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh trang 120 – 121 SGK ngữ văn lớp 11 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

Hướng dẫn soạn bài – Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh.

Giải câu 1 – (Trang 120 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi nêu ở dưới:

Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu tự đại tức là thoái bộ. Sông to, bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu Cái chén nhỏ, cái điã cạn thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn thì cũng như cái chén, cái đĩa cạn.

(Hồ Chí Minh, Cần kiệm liêm chính)

– Đoạn trích trên sử dụng những thao tác lập luận nào?

– Phân tích mục đích, tác dụng và cách kết hợp các thao tác lập luận trong đoạn trích.

– Anh (chị) rút ra được kết luận gì về việc vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận trong một đoạn (một bài) văn nghị luận?

Trả lời:

– Trong đoạn văn, tác giả có sử dụng thao tác lập luận phân tích và thao tác so sánh

+ Thao tác phân tích: là những phân tích để làm rõ sự “khờ dại” của tự kiêu tự đại và “Tự kiêu tự đại tức là thoái bộ” nghĩa là thế nào?

+ Thao tác so sánh (Người mà tự kiêu tự mãn thì cũng như cái chén, cái đĩa cạn). Sự so sánh đầy hình tượng giúp cho người đọc hình dung một cách rõ hơn, sinh động hơn thế nào là tự kiêu tự đại và tác hại của hai biểu hiện đó trong tính cách của con người.

→ Trong đoạn văn, thao tác lập luận phân tích đóng vai trò chủ đạo, còn thao tác lập luận so sánh có vai trò hỗ trợ để góp phần cho đoạn văn thêm sinh động, hấp dẫn.

– Mục đích, tác dụng và cách kết hợp của thao tác lập luận trong đoạn trích: Giúp người đọc, người nghe hiểu rõ hơn về tính tự kiêu, tự đại trong mỗi con người và tác hại của hai biểu hiện đó trong tính cách của con người.

– Việc kết hợp vận dụng thao tác lập luận phân tích và so sánh là một việc làm tất yếu, rất ít trường hợp chỉ sử dụng một thao tác lập luận trong một bài văn. Đồng thời chúng ta cũng phải biết linh hoạt trong việc sử dụng các thao tác lập luận.

Giải câu 2 – (Trang 120 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Vận dụng kết hợp phân tích và so sánh, viết đoạn văn bàn về vẻ đẹp của một bài thơ (bài văn):

Trả lời:

Vận dụng kết hợp phân tích và so sánh, viết đoạn văn bàn về vẻ đẹp của một bài thơ (bài văn). Cần phải tiến hành theo các bước:

– Chủ đề của bài văn ấy là gì?

– Cần nêu những ý nào để làm sáng tỏ chủ đề của bài văn? Sắp xếp các luận điểm thành một dàn ý mạch lạc, hợp lí.

– Dùng từ, câu như thế nào để chuyển ý cho phù hợp.

– Để làm sáng tỏ luận điểm cần đưa ra những luận cứ nào?

– Bài viết cần biết cách sử dụng và kết hợp các thao tác lập luận phân tích.

Bài tham khảo:

Thơ hay là thơ phải có nội dung sâu sắc, phải có hình thức diễn đạt phù hợp, thơ hay là thơ khiến cho người đọc, đọc xong có ấn tượng sâu sắc. Họ cảm nhận đó như là tâm trạng của mình. Cái thú vị, cái hay của bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương thể hiện ở chỗ, cách dùng từ ngừ của Hồ Xuân Hương hết sức giàn dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo nhưng lại rất tinh tế. Đó là những từ ngữ như “trơ cái hồng nhan, đâm toạc chân mây, mảnh tình san sẻ”. Với tài nghệ sứ dụng từ ngữ, Hồ Xuân Hương đã tạo cho bài thơ nhiều giọng điệu với đầy đủ các sắc thái tình cảm: tủi hổ, phiền muộn, bực dọc, phản kháng và cuối cùng là chua chát, chán chường. Nhà thơ còn dùng phép tiều đối: lấy “cái hồng nhan” đem đối với “nước non” thật đắt và táo bạo nhưng lại rất phù hợp nên dã làm nổi bật được tâm trạng cô đơn, chán chường của mình. Đặc biệt, nghệ thuật tăng tiến ờ câu cuối: Mảnh tình – san sẻ – tí – con – con, đã làm nổi bật tâm trạng chua chát, buồn tủi của chủ thế trữ tình trước tình duyên lận đận. Với nghệ thuật dặc sắc đó, Hồ Xuân Hương đã góp vào kho tàng thơ Nôm Việt Nam một tiếng thơ táo bạo mà chân thành, mới lạ nhưng lại hết sức gần gũi. Bài thơ mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Với việc giải bày nỗi cô đơn, buồn tủi cúa mình, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã nói lên được tình cảnh chua chát của muôn vàn phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là xã hội bất công đã làm cho bao nhiêu thân phận “hồng nhan” bị lỡ làng và đau khổ. Buồn tủi với tình cảnh hiện tại, nữ sĩ luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc, một tình yêu lứa đôi trọn vẹn. Khát vọng của Hồ Xuân Hương về hạnh phúc lứa đôi cũng chính là khát vọng của người phụ nữ trong xă hội lúc bấy giờ. Đó là một khát vọng chính dáng và đầy tính nhân văn.

Giải câu 3 – (Trang 121 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Công việc ở nhà:

a) Vận dụng kết hợp các thao tác phân tích và so sánh để viết đoạn văn trình bày một luận điểm khác ở dàn ý mà anh (chị) đã xây dựng.

b) Viết một văn bản nghị luận ngắn về một phẩm chất của người học sinh, trong đó có vận dụng kết hợp các thao tác phân tích và so sánh.

c) Sưu tầm những đoạn văn hay, ở đó, tác giả đã thành công trong việc vận dụng kết hợp các thao tác phân tích và so sánh.

Trả lời:

a) Vận dụng kết hợp các thao tác phân tích và so sánh để viết đoạn văn trình bày một luận điểm khác ở dàn ý mà anh chị đã xây dựng.

Nói đến người phụ nữ Việt Nam thì phải nói về lòng hiếu thảo với cha mẹ, sự chịu thương, chịu khó và giàu đức hi sinh. Thật vậy, từ xa xưa trong ca dao dân ca đã có những hình ảnh khắc họa đức tính ấy của người phụ nữ như “Ở nhà còn mẹ, còn cha/ lẽ đâu tôi dám nguyệt hoa cùng người; cái cò lặn lội bờ sông / gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, “Chồng em áo rách em thương/ chồng người áo gấm, sông hương mặc người” hay ” Chưa chồng đi dọc, đi ngang/ có chồng cứ thẳng một đàng mà đi”. Người phụ nữ Việt Nam từ lâu đã được giáo huấn cẩn thận vì thế họ đoan trang, yêu thương cha mẹ, biết lễ nghĩa, thùy mị. Tình yêu của họ với cha mẹ thì mãnh liệt, nhưng tình yêu đôi lứa của họ nhẹ nhàng nhưng rất đỗi chung tình. Không chỉ ca dao, tục ngữ cho rằng người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh mà trong các tác phẩm văn học Việt Nam đi suốt chiều dọc lịch sử đất nước cũng khẳng định điều ấy. Ta bắt gặp thân phận của người phụ nữ trong những tác phẩm văn học trung đại, như Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Vũ Nương trong truyện Người con gái Nam Xương, rồi người phụ nữ trong một số bài thơ của Hồ Xuân Hương.Họ không chỉ đẹp ở tư dung bên ngoài mà còn đủ tài năng và đức hạnh. Văn học Việt Nam hiện đại, lại một lần nữa khẳng định đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.Thời kỳ này, họ cái đẹp của họ không đơn thuần là sự cam chịu, sự nhẹ nhàng như thời trung đại mà cái đẹp của họ toát lên ở sự năng động trẻ trung. Họ yêu làng, yêu nước, yêu quê hương. Họ cũng tham gia đánh giặc, lo lắng bương trải cho gia đình. Đã có biết bao bà mẹ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ” ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ/ Các anh không về, mình mẹ lặng im” (Tạ Hữu Yên). Có mẹ ở Hà Bắc đã vá hơn hai trăm chiếc áo cho bộ đội, chiến sĩ: …”Tấm áo ấy bấy lâu nay con thường vẫn mặc/ Để nhớ ngày chúng con về Hà Bắc/ Quần nhau với giặc, áo con rách thêm/ Nên các mẹ già lại phải thức thâu đêm vá áo/ Tấm áo ấy bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo/ Đời mẹ nghèo thương áo rách/ Áo rách nên thương/” (Nguyễn Văn Tý). Những bà má ở Hậu Giang, bà Bầm ở Trung du, bà Bủ ở Việt Bắc, mẹ Tơm ở Thanh Hoá, mẹ Suốt ở Quảng Bình, chị Út Tịch ở Cầu Kè, Trà Vinh… và biết bao các mẹ, các chị đã đi vào thơ ca, nhạc, hoạ. Chị Út Tịch với quyết tâm đánh Mỹ đến cùng “Còn cái lai quần cũng đánh”. Những cô gái người Pa cô, Vân Kiều đi tải đạn, và tay vót chông miệng hát không nghỉ. Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), tuổi đẹp như trăng rằm từ 18 đến 20 đã ngã xuống để làm xanh một khoảng trời con gái (Lâm Thị Mỹ Dạ). Nhiều cô gái Em ở nông trường hay ra biên giới miệng vẫn hát vang lời ca Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao! Những cô giáo ở Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên hay ở vùng sâu, vùng xa hy sinh cả tuổi xuân để đem chữ Cụ Hồ tới đàn em thơ ở các bản làng dân tộc xa xôi, hẻo lánh. Cô giáo người Tày Tô Thị Rĩnh đã dùng tiếng đàn để thu hút các em học sinh người Hmông tới lớp, lấy đồng lương ít ỏi của mình để mua tập vở cho các em.

b) Viết một đoạn văn nghị luận ngắn về một phẩm chất của người học sinh.

Trung thực là đức tính quan trọng cần có trong mỗi người học sinh. Đó là một điều không thể bàn cãi được. Tuy nhiên, ngày nay do bị ảnh hưởng bởi nhiều hướng mà có người này, có người kia, có em học sinh trung thực, có em không trung thực. Gian lận trong thi cử, nói dối bố mẹ, thầy cô, bạn bè và mọi người xung quanh là những biểu hiện tiêu biểu nhất của việc học sinh không trung thực. Tại sao lại có thể khẳng định rằng trung thực là đức tính quan trọng cần có trong mỗi người học sinh?. Ta hiểu rằng giáo dục con người, quan trọng nhất là giáo dục khi họ còn đang ngồi trong ghế nhà trường. Thời học sinh ảnh hưởng trực tiếp trong việc xây dựng nhân cách của con người trong tương lai. Khi con người ta, ngay từ nhỏ, còn đang là học sinh không được giáo dục về tính trung thực thì sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng đến nhường nào. Trước hết, đối với chính người học sinh đó. Họ sẽ đánh mất niềm tin ở mọi người và tự trọng của mình đối với mọi người. Thiếu trung thực sẽ đánh mất niềm tin và sự tôn trọng của mọi người đối với mình. Nạn học giả , bằng thật do quay cóp chép bài của bạn , gian lận trong thi cử vẫn còn phổ biến . Điều đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả thực chất của dạy và học, gây dư luận xấu trong xã hội.

c) Sưu tầm những đoạn văn hay ở đó tác giả đã thành công trong việc vận dụng kết hợp các thao tác phân tích và so sánh.

Yêu người, đó là một truyền thống cũ .” Chinh phụ ngâm, cung oán ngâm khúc” đã nói đến con người. Nhưng dù sao cũng là mới bàn về một hạng người. Với Kiều, Nguyễn Du đã nói đến cả toàn xã hội người. Với “Chiêu hồn” thì cả loài người được bàn đến […]. Chiêu hồn, con người trong cái chết. Chiêu hồn, con người trong từng giới, từng loài, “mười loài là những loài nào” với những nét cộng đồng phổ biến, điển hình của từng loại một.[..]

( Theo Tuyển tập của Chế Lan Viên, Tập II, NXB văn học Hà Nội, 1990)

=> Đoạn văn này dùng thao tác lập luận so sánh để làm nổi bật ý văn của mình.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh

Câu 1. Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi nêu ở dưới:

Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu tự đại tức là thoái bộ. Sông to, bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu Cái chén nhỏ, cái điã cạn thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn thì cũng như cái chén, cái đĩa cạn.

(Hồ Chí Minh, Cần kiệm liêm chính)

– Đoạn trích trên sử dụng những thao tác lập luận nào?

– Phân tích mục đích, tác dụng và cách kết hợp các thao tác lập luận trong đoạn trích.

– Anh (chị) rút ra được kết luận gì về việc vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận trong một đoạn (một bài) văn nghị luận?

Trả lời:

* Chủ đề của đoạn văn là phê phán và chỉ ra tác hại của căn bệnh tự kiêu tự đại

* Thao tác lập luận được sử dụng trong đoạn trích là: lập luận và so sánh.

– Phân tích:

+ Luận điểm chính: Chớ có tự kiêu tự đại.

+ Hai lí do để không nên tự kiêu tự đại là “tự kiêu tự đại là khờ dại” và “tự kiêu tự đại là thoái bộ”.

– Thao tác so sánh:

+ “mình hay” >< “nhiều ngươi hay hơn mình”

+ “sông to, bể rộng”>< “cái chén nhỏ, cái đĩa cạn”

+ “độ lượng của nó rộng và sâu” >< “độ lượng của nó hẹp và nhỏ”

=> So so sánh tương phản.

+ “người tự kiêu tự mãn…cái chén, cái đĩa cạn”

=> So sánh tương đồng.

Thao tác lập luận chính được sử dụng là so sánh có sự kết hợp với thao tác phân tích.

* Mục đích, tác dụng của việc sử dụng hai thao tác:

+ Làm cho vẫn đề được đưa ra bàn luận trở nên sinh động, cụ thể, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người hơn.

+ Để từ đó sống khiêm tốn hơn, biết tôn trọng người khác hơn, chịu khó học hỏi nhiều hơn.

=>Trong làm văn nghị luận, chúng ta nên vận dụng hai thao tác lập luận chính là phân tích và so sánh để đạt hiểu quả giao tiếp cao honq. Trung từng văn bản bao giờ cũng có 1 thao tác chủ yếu, các thao tác khác còn lại mang tính chất bổ trợ.

Câu 2. Vận dụng kết hợp phân tích và so sánh, viết đoạn văn bàn về vẻ đẹp của một bài thơ (bài văn):

Trả lời:

Những nội dung cần có:

– Chủ đề bài văn cần viết.

– Lập dàn ý: với hệ thống những ý chính để làm sáng tỏ chủ đề của bài văn và sắp xếp chúng

– Xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ và cách sắp xếp chúng trong bài văn

– Cần sử dụng các thao tác lập luận trong việc diễn giải các luận cứ. Xác định rõ ràng nên sử dụng thao tác phân tích hay so sánh; thao tác nào là chủ đạo.

– Xác định những câu chuyển ý, từ nối cho phù hợp giữa các ý trong bài văn.

Câu 3. Công việc ở nhà:

a) Vận dụng kết hợp các thao tác phân tích và so sánh để viết đoạn văn trình bày một luận điểm khác ở dàn ý mà anh (chị) đã xây dựng.

b) Viết một văn bản nghị luận ngắn về một phẩm chất của người học sinh, trong đó có vận dụng kết hợp các thao tác phân tích và so sánh.

c) Sưu tầm những đoạn văn hay, ở đó, tác giả đã thành công trong việc vận dụng kết hợp các thao tác phân tích và so sánh.

Trả lời:

Tiến hành các bước như trên để viết một văn bản nghị luận ngắn, có sử dụng kết hợp ít nhất là hai kiểu lập luận khác nhau, nhằm thuyết phục độc giả nghe theo quan điểm của mình về một trong những hiện tượng (vấn đề) đang được quan tâm trong lớp, trong nhà trường hoặc trong đời sống hiện nay.

– Một bài thơ (bài hát, bộ phim,…) đang gây nhiều tranh cãi;

– Vấn đề tiếp thụ những tinh hoa của văn hoá nhân loại trong bối cảnh thế giới đang có xu hướng trở thành một ngôi nhà chung;

– Nên hay không nên bàn về những hạn chế, điểm yếu của dân tộc mình (Tham khảo bài viết: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của Vũ Khoan trong SGK Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục).

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status