Soạn bài Liên kết trong văn bản trang 17 – 19 SGK ngữ văn lớp 7 tập 1, Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Liên kết trong văn bản sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ và chi tiết nhất.
Hướng dẫn soạn bài – Liên kết trong văn bản
I. Liên kết và phương tiện liên kết trong văn bản
Giải câu 1 – Tính liên kết của văn bản (Trang 17 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Trả lời:
Các câu trong đoạn văn, nếu tách rời, đều là những câu hoàn chỉnh, nội dung rõ ràng. Nhưng cả đoạn, với sự nối kết các câu lỏng lẻo, thì ý nghĩa không được biểu đạt rõ ràng. Muốn để người khác hiểu được ý của mình, ngoài việc tạo ra những câu đúng, người viết (nói) còn phải tổ chức mối liên kết chặt chẽ giữa các câu.
Giải câu 2 – Phương tiện liên kết trong văn bản (Trang 18 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Trả lời:
a) Đoạn văn (a) vì chưa thể hiện thái độ của người bố, cho nên En-ri-cô chưa hiểu được ý bố.
b) Đoạn văn sau thiếu sự liên kết, vì giữa các câu không có các phương tiện ngôn ngữ để kết nối:
Một ngày kia, còn xa lắm, ngày đó con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một li sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của đứa trẻ tựa nghiêng trẽn gối mềm, đôi môi hé nở và thỉnh thoảng chúm Lại như đang nút kẹo.
Đoạn văn trên có thể sửa lại bằng cách thêm vào các phương tiện ngôn ngữ như sau:
Một ngày kia, còn xa lắm, ngày đó con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Còn ây giờ, giấc ngủ đến với con dễ dàng như uổng một li sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của con tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé nở và thỉnh thoảng chúm lại như đang nút kẹo.
c) Từ hai ví dụ trên, chúng ta nhận thấy: một văn bản có tính liên kết trước hết nội dung của các câu phải gắn bó chặt chẽ với nhau. Cùng với điều kiện ấy, các câu trong văn bản phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ liên kết một cách thích hợp.
II. Luyện tập
Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 18 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Sắp xếp những câu văn dưới đây theo một thứ tự hợp lí để tạo thành một đoạn văn có tính liên kết chặt chẽ.
(1) Một quan chức của thành phố đã kết thúc buổi lễ phát thưởng như sau:(2) Và ông đưa tay chỉ về phía các thầy giáo, cô giáo ngồi trên các hành lang.(3) Các thầy, các cô đều đứng dậy vẫy mũ, vẫy khăn đáp lại, tất cả đều xúc động về sự biểu lộ lòng yêu mến ấy của học sinh.(4) “Ra khỏi đây, các con ạ, các con không được quên gửi lời chào và lòng biết ơn đến những người đã vì các con mà không quản bao mệt nhọc, những người đã cống hiến cả trí thông minh và lòng dũng cảm cho các con, những người sống và chết vì các con, và họ đây này!”.(5) Nghe lời kêu gọi cảm động, đáp ứng đúng những tình cảm của mình, tất cả học sinh đều đứng dậy, dang tay về phía các thầy, các cô.
Trả lời:
Trình tự các câu trong đoạn văn cũng thể hiện diễn biến của sự việc, đảo lộn trật tự này sẽ dẫn đến phá vỡ liên kết. Trật tự hợp lí của các câu phải là:
(1) -> (4) -> (2) -> (5) -> (3).
Giải câu 2 – Luyện tập (Trang 19 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Các câu văn dưới đây đã có tính liên kết chưa? Vì sao?
Tôi nhớ đến mẹ tôi “lúc người còn sống, tôi lên mười”.Mẹ tôi âu yếm dắt tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.Sáng nay, lúc cô giáo đến thăm, tôi nói với mẹ có nhỡ thốt ra một lời thiếu lễ độ.Còn chiều nay, mẹ hiền từ của tôi cho tôi đi dạo chơi với anh con trai lớn của bác gác cổng.
(Lưu ý: Về hình thức, các câu văn này có vẻ rất “liên kết”.)
Trả lời:
Một đoạn văn được xem là có tính liên kết tức là phải đảm bảo sự nối kết chặt chẽ giữa các câu trên cả hai phương diện nội dung ý nghĩa và hình thức ngôn ngữ. Hai phương diện liên kết này không thể tách rời nhau. Ở bề mặt ngôn ngữ, thoạt xem, đoạn văn trên có vẻ liên kết, nhưng thực ra các câu không thống nhất trong một nội dung ý nghĩa.
Giải câu 3 – Luyện tập (Trang 19 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Điền những từ ngữ thích hợp vào chỗ trống trong đoạn văn dưới đây để các câu liên kết chặt chẽ với nhau.
Bà ơi! Cháu thường về đây, ra vườn, đứng dưới gốc na, gốc ổi mong tìm lại hình bóng của… và nhớ lại ngày nào… trồng cây, … chạy lon ton bên bà … bảo khi nào cây có quả… sẽ dành quả to nhất, ngon nhất cho.., nhưng cháu lại bảo quả to nhất, ngon nhất phải để phần bà… bà ôm cháu vào lòng, hôn cháu một cái thật kêu.
(Theo Nguyễn Thu Thủy Tiên,
Những bức thư đoạt giải Liên minh Bưu chính Quốc tế (UPU)
Trả lời:
Điền các từ ngữ thích hợp vào chỗ trống trong đoạn văn dưới đây để các câu liên kết chặt chẽ với nhau:
Bà ơi! Cháu trường về đây, ra vườn, đứng dưới gốc na, gốc ơi mong tìm lại được hình bóng của “bà”, và nhớ lại ngày nào “bà” trồng cây, “cháu” chạy lon ton bên bà. Bà bảo khi nào cây co quả “bà” sẽ dành quả to nhất, ngon nhất cho “cháu”, nhưng cháu lại bảo quả to nhất, ngon ngất phải để phần bà. “Thế là” bà ôm cháu vào lòng, hôn cháu một cái thật kêu.
Giải câu 4 – Luyện tập (Trang 19 SGK ngữ văn 7 tập 1)
“Đêm nay mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con.”
Có người nhận xét: Sự liên kết giữa hai câu trên hình như không chặt chẽ, vậy mà chúng vẫn được đặt cạnh nhau trong văn bản Cổng trường mở ra.Em hãy giải thích tại sao.
(Gợi ý: Hãy đọc những câu văn tiếp đó.)
Trả lời:
– Về mặt nội dung và hình thức hai câu này có vẻ rời rạc không có sự liên kết, câu một nói về mẹ, câu hai nói về con.
– Nhưng ở câu thứ ba, “Mẹ sẽ đưa con đến trường”, cả hai từ mẹ và con đã liên kết hai câu trên thành một câu thống nhất, vì vậy chúng vẫn được đặt cạnh nhau trong văn bản.
Giải câu 5 – Luyện tập (Trang 19 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Chắc em biết câu chuyện cổ tích kể về một anh trai cày đã đẵn đủ trăm đốt tre nhưng không nhờ đến phép màu của Bụt thì không sao có được cây tre trăm đốt.Câu chuyện ấy có giúp em hiểu được điều gì cụ thể hơn về vai trò của liên kết trong văn bản không?
Trả lời:
Trăm đốt tre, nếu tách rời nhau, cũng không thành một cây tre được. Phải nhờ có phép màu của Bụt nối các đốt tre lại với nhau thì anh trai cày mới có được một cây tre thực sự. Liên kết trong văn bản cũng vậy. Các đoạn, các câu không được tổ chức gắn kết với nhau thì không thể có văn bản hoàn chỉnh. Các đoạn, câu tựa như những đốt tre, văn bản như cây tre vậy.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Liên kết trong văn bản
Câu 1: Tính liên kết của văn bản.
a) Theo em, nếu bố En- ri- cô chỉ viết mấy câu (SGK, tr. 17) thì En- ri- cô có thể hiểu điều bố muốn nói chưa?
b) Nếu En- ri- cô chưa hiểu ý bô’ thì hãy cho biết vì lí do nào?
c) Từ đó, hãy trả lời câu hỏi: Muốn cho đoạn văn có thế hiểu được thì nó phải có tính chất gì?
Trả lời:
a) Nếu bố En-ri-cô chỉ viết một đoạn văn như ví dụ (a) trong sách giáo khoa thì En-ri-cô không thể hiểu được điều bố muốn nói.
b) Lí do mà En-ri-cô không hiểu ý bố là vì: Câu văn có nội dung chưa thật rõ ràng; thứ hai vì giữa các câu chưa có sự liên kết; muốn cho đoạn văn hiểu được thì phải có tính liên kết.
c) Muốn cho đoạn văn có thế hiếu được thì phải có tính chất liên kết, mà muốn liên kết tốt thì câu văn phải đúng ngữ pháp, chính xác, rõ ràng. Đây chính là tính chất quan trọng nhất cua văn bản.
Câu 2: Phương tiện liên kết trong văn bản.
a) Đọc kĩ lại đoạn văn trên và cho biết do thiếu ý gì mà nó trở nên khó hiểu.Hãy sửa lại đoạn văn để En-ri-cô hiểu được ý của bố.
b) Đọc các câu văn trong SGK trang 18 và chỉ ra sự thiếu liên kết của chúng. Hãy sửa lại để thành một đoạn văn có ý nghĩa.
c) Từ hai ví dụ trên, em hãy cho biết: Một văn bản có tính liên kết trước hết phải có điều kiện gì?Cùng với điều kiện ấy, các câu trong văn bản phải sử dụng các phương tiện gì?
Trả lời:
a) Muốn sửa lỗi liên kết, phải nắm đoán định được ý đồ của người viết. Trong đoạn văn trên, người bố muốn nói cho En-ri-cô nhận thấy lỗi của mình khi đã thiếu lễ độ với mẹ, cũng là để giúp En-ri-cô hiểu được tình thương yêu vô bờ bến của mẹ dành cho con.
Với định hướng về chủ đề như vậy, có thể sửa đoạn văn như sau:
Trước mặt cô giáo, con đã thiếu lễ độ với mẹ. Con biết không, cách đây mấy năm, mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con! Hãy nghĩ xem, En-ri-cô à! Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, người mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con! Người ấy có đáng để con cư xử như thế không? Bố rất buồn vì hành động của con. Thôi, trong một thời gian con đừng hôn bố.
b) Một ngày kia, còn xa lắm, ngày đó con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Còn bây giờ, giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một li sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của con tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo.
c) Như vậy, những thiếu sót ở trên đã làm cho đoạn văn ban đầu rời rạc khó hiếu, bị hiểu sai do chưa có sự liên kết về hình thức. Mặt khác, nó giúp ta nhận thấy, trong một đoạn văn, các câu văn không chỉ được liên kết về mặt nội dung mà còn phải liên kết với nhau về mặt hình thức, phải được kết nối bằng các phương tiện ngôn ngữ thích hợp.
Soạn bài luyện tập Liên kết trong văn bản trang 18, 19 SGK ngữ văn 7 tập 1
Bài 1: Sắp xếp những câu văn dưới đây theo một thứ tự hợp lý để tạo thành một đoạn văn có tính liên kết chặt chẽ.
Trả lời:
Trình tự các câu trong đoạn văn cũng thể hiện diễn biến của sự việc, đảo lộn trật tự này sẽ dẫn đến phá vỡ liên kết. Trật tự hợp lí của các câu phải là: (1) -> (4) -> (2) -> (5) -> (3).
Bài 2: Các câu văn dưới đây đã có tính liên kết chưa? Vì sao?
Tôi nhớ đến mẹ tôi “lúc người còn sống, tôi lên mười”. Mẹ tôi âu yếm dắt tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài. Sáng nay, lúc cô giáo đến thăm, tôi nói với mẹ có nhỡ thốt ra một lời thiếu lễ độ. Còn chiều nay, mẹ hiền từ của tôi cho tôi đi dạo chơi với anh con trai lớn của bác gác cổng.
Trả lời:
Các câu văn dưới đây, về mặt hình thức có vẻ “liên kết” do sử dụng các phương tiện ngôn ngữ trùng lặp, nhưng thật ra chưa có sự liên kết nào, vì nội dung các câu chưa có sự gắn bó chặt chẽ thống nhất nhau.
Bài 3: Điền những từ ngữ thích hợp vào chỗ trống trong đoạn văn để các câu liên kết chặt chẽ với nhau.
Bà ơi! Cháu thường về đây, ra vườn, đứng dưới gốc na, gốc ổi mong tìm lại hình bóng của… và nhớ lại ngày nào… trồng cây, … chạy lon ton bên bà … bảo khi nào cây có quả… sẽ dành quả to nhất, ngon nhất cho.., nhưng cháu lại bảo quả to nhất, ngon nhất phải để phần bà… bà ôm cháu vào lòng, hôn cháu một cái thật kêu.
Trả lời:
Những từ ngữ được điền vào đoạn văn như sau:
Bà ơi! Cháu thường về đây, ra vườn, đứng dưới gốc na, gốc ổi mong tìm lại hình bỏng của bà và nhớ lại ngày nào bà thường trồng cây cháu chạy lon ton bên bà. Bà bảo khi nào cây có quả, bà sẽ dành quả to nhất, ngon nhất cho cháu, nhưng cháu lại bảo quả to nhất, ngon nhất phải để phần bà. Thế là bà ôm cháu vào lòng, hôn cháu một cái thật kêu.
Bài 4: “Đêm nay mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con.”
Có người nhận xét: Sự liên kết giữa hai câu trên hình như không chặt chẽ, vậy mà chúng vẫn được đặt cạnh nhau trong văn bản Cổng trường mở ra. Em hãy giải thích tại sao?
Trả lời:
“Đêm nay mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con.”
Hai câu văn trên, nếu tách khỏi các câu khác trong văn bản thì nội dung ý nghĩa không liên kết nhau, vì câu trước chỉ nói về mẹ và câu sau chỉ nói về con. Nhưng tiếp theo hai câu trên còn có câu: “Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng rồi buông tay mà nói…”. Câu này đề cập cả mẹ và con, có nội dung liên kết với cả ha. câu trên. Nhờ thế, trong đoạn văn, cả ba câu trên vẫn liên kết nhau thành một thể thống nhất. Cho nên sự sửa chữa là không cần thiết.
Bài 5: Chắc em biết câu chuyện cố tích kể về một anh trai cày đã chặt đủ trăm đốt tre nhưng không nhờ đến phép màu của Bụt thì không sao có được cây tre trăm đốt. Câu chuyện ấy có giúp em hiểu được điều gì cụ thế hơn về vai trò của liên kết trong văn bản không?
Trả lời:
Trong câu chuyện Cây tre trăm đốt, nếu như chỉ có trăm đốt tre mà không nhờ đến phép màu của Bụt thì không sao thành cây tre được. Câu chuyện ấy đã giúp em hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sự liên kết, không thể có văn bản nếu các câu văn không nối liền nhau.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment