Soạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 trang 82 – 91 SGK ngữ văn lớp 11 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
Hướng dẫn soạn bài – Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
Giải câu 1 (trang 91 SGK ngữ văn 11 tập 1)
Về đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945:
a) Anh (chị) hiểu thế nào về khái niệm “hiện đại hoá” được dùng trong bài học? Những nhân tố nào đã tạo điều kiện cho văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 đổi mới theo hướng hiện đại hoá? Quá trình hiện đại hoá đó diễn ra như thế nào?
b) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 có sự phân hoá phức tạp như thế nào? Những điểm khác nhau giữa hai bộ phận văn học công khai và không công khai (về đội ngũ nhà văn, hoàn cảnh sáng tác và tính chất)?
c) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 phát triển với một tốc độ hết sức nhanh chóng. Hãy lí giải nguyên nhân của sự phát triển ấy.
Trả lời:
a) Hiện đại hóa được hiểu là quá trình làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức của văn học phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học hiện đại trên thế giới.
Nội dung của hiện đại hóa văn học diễn ra trên mọi mặt, ở nhiều phương diện: quan niệm về văn học, tư tưởng, tình cảm, cái nhìn,… của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên, hiện đại hóa dễ nhận thấy nhất ở hình thức của văn học.
– Những nhân tố tạo điều kiện cho nền văn học Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hóa: Xã hội thực dân nửa phong kiến tạo điều kiện cho văn học Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hóa:
+ Xã hội thực dân nửa phong kiến, cơ cấu xã hội có những biến đổi sâu sắc: xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới.
+ Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.
+ Lực lượng sáng tác chủ yếu: Tầng lớp tri thức Tây học.
+ Chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm.
+ Nghề in, xuất bản, báo chí, dịch thuật ra đời và phát triển mạnh.
+ Sự xuất hiện của đội ngũ phê bình văn học.
– Quá trình hiện đại hóa của văn học thời kì này diễn ra qua ba đoạn:
+ Giai đoạn thứ nhất (Từ đầu thế kỉ XX đến khoảng những năm 1920).
+ Giai đoạn thứ hai (khoảng từ năm 1920 đến năm 1930).
+ Giai đoạn thứ 3 (khoảng từ năm 1930 đến năm 1945).
Hiện đại hóa văn học là một quá trình. Ở hai gia đoạn đầu, đặc biệt ở giai đoạn thứ nhất, văn học còn bị nhiều ràng buộc, phải đến giai đoạn thứ 3 thì công cuộc hiện đại hóa mới thực sự toàn diện và sâu sắc, hoàn tất quá trình hiện đại hóa văn học.
b) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 hình thành theo hai bộ phận và phân hóa thành nhiều dòng, vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung cho nhau để cùng phát triển. Do đặc điểm của một nước thuộc địa, chịu sự chi phối mạnh mẽ và sâu sắc của quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 hình thành hai bộ phận: văn học công khai và văn học không công khai.
– Bộ phận văn học công khai: là văn học hợp pháp tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân phong kiến. Những tác phẩm này có tính dân tộc và tư tưởng lành mạnh nhưng không có ý thức cách mạng và tinh thần chống đối trực tiếp với chính quyền thực dân. Phân hóa thành nhiều xu hướng:
+ Xu hướng văn học lãng mạn.
+ Xu hướng văn học hiện thực.
– Bộ phận văn học không công khai là văn học cách mạng bí mật. Đây là bộ phận của văn học cách mạng và nó trở thành dòng chủ của văn học sau này.
c) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 phát triển với một tốc độ hết sức nhanh chóng. Nguyên nhân:
– Sức sống văn hóa mãnh liệt mà hạt nhân là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, biểu hiện rõ nhất là sự trưởng thành và phát triển của tiếng Việt và văn chương Việt.
– Sự thức tỉnh ý thức cá nhân của tầng lớp trí thức Tây học.
– Sự tác động của thời đại: Văn chương lúc này trở thành một thứ hàng hóa, viết văn trở thành một nghề để kiếm sống.
Giải câu 2 (trang 91 SGK ngữ văn 11 tập 1)
Về thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945:
a) Những truyền thống tư tưởng lớn nhất, sâu sắc nhất của lịch sử văn học Việt Nam là gì? Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 có đóng góp gì mới cho những truyền thống ấy?
b) Những thể loại văn học nào mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945? Sự cách tân, hiện đại hoá các thể loại tiểu thuyết và thơ diễn ra như thế nào?
Trả lời:
a) Văn học Việt Nam có hai truyền thống lớn: chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo.
Đóng góp mới: tinh thần dân chủ.
Tinh thần dân chủ đem đến cho truyền thống nhân đạo những nét mới: quan tâm tới những con người bình thường trong xã hội, nhất là tầng lớp nhân dân cực khổ, lầm than. Các nhà văn thế hệ từ 1930 đến 1945 không chỉ tố cáo áp bức bóc lột mà còn thể hiện sâu sắc khát vọng mãnh liệt của mỗi cá nhân, đề cao vẻ đẹp hình thức, phẩm giá và phát huy cao độ tài năng của mỗi con người.
b) Trong giai đoạn văn học này, xuất hiện nhiều những thể loại mới như phóng sự, lí luận phê bình văn học và những thể loại cũ có sự biến chuyển như tiểu thuyết, thơ. Có thể nói, sự cách tân hiện đại hóa về thể loại thể hiện rõ nhất ở thơ và tiểu thuyết.
Tiểu thuyết trung đại Việt Nam thường vay mượn đề tài, cốt truyện của văn học Trung Quốc, tập trung vào việc xây dựng cốt truyện li kì, hấp dẫn, kết cấu theo kiểu chương hồi và theo công thức, kết thúc có hậu, truyện được thuật theo trình tư thời gian; nhân vật thường phân tuyến rạch ròi, câu văn theo lối biền ngẫu… Trong khi đó, tiểu thuyết xóa bỏ những đặc điểm trên. Tiểu thuyết hiện đại lấy tính cách nhân vật trung tâm, chú trọng tính cách hơn là cốt truyện, đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật. Tiểu thuyết trần thuật theo thời gian tự nhiên mà rất linh hoạt, kết thúc thường không có hậu, bỏ những ước lệ, dùng bút pháp tả thực, lời văn tự nhiên gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày…
Thơ mới khác thơ trung đại ở chỗ nó phá bỏ các quy phạm chặt chẽ hệ thống ước lệ của thơ trung đại (về niêm, luật, điển cố, hình ảnh ước lệ…) Thơ mới là tiếng nói của cái tôi cá nhân trước cuộc đời, tạo vật.
Soạn phần luyện tập bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
Giải câu hỏi – Luyện tập (Trang 91 SGK ngữ văn 11 tập 1)
Vì sao có thể gọi văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX (từ 1900 đến 1930) là văn học giai đoạn giao thời?
Trả lời:
Hiện đại hóa văn học là một quá trình. Trong hai giai đoạn đầu, đặc biệt là ở giai đoạn thứ nhất, sự đổi mới còn có những trở ngại nhất định, bởi sự níu kéo của cái cũ. Vì vậy, văn học từ năm 1900 đến 1930 được gọi là giai đoạn văn học giao thời.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
Câu 1. Về đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945:
a) Anh (chị) hiểu thế nào về khái niệm “hiện đại hoá” được dùng trong bài học? Những nhân tố nào đã tạo điều kiện cho văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 đổi mới theo hướng hiện đại hoá? Quá trình hiện đại hoá đó diễn ra như thế nào?
b) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 có sự phân hoá phức tạp như thế nào? Những điểm khác nhau giữa hai bộ phận văn học công khai và không công khai (về đội ngũ nhà văn, hoàn cảnh sáng tác và tính chất)?
c) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 phát triển với một tốc độ hết sức nhanh chóng. Hãy lí giải nguyên nhân của sự phát triển ấy.
Trả lời:
a) Khái niệm: Hiện đại hóa văn học Việt Nam là quá trình làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức của văn học phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học hiện đại trên thế giới.
Các nhân tố đã tạo điều kiện cho văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 đổi mới:
- Thực dân Pháp bình định xong đất nước tiến hành khai thác thuộc địa Xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc theo hướng hiện đại hóa.
- Xuất hiện nhiều đô thị mới và những tầng lớp mới.
- Nhu cầu về văn hoá, thẩm mĩ ở trong nước có sự thay đổi.
- Ảnh hưởng của văn hoá phương Tây (đặc biệt là Pháp).
- Chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Hán và chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực, được phổ biến rộng rãi
- Những nghề phục vụ cho văn học như nghề báo, nghề in, xuất bản cũng có sự phát triển; đời sống văn học trở nên sôi nổi.
=> Là nhân tố tạo điều kiện cho văn học Việt Nam đổi mới theo hướng hiện đại hóa.
b) Văn học phân hóa thành hai bộ phận:
- Bộ phận văn học phát triển hợp pháp (công khai) gồm các sáng tác được đăng tải và xuất bản công khai. Những tác phẩm này vẫn có tính dân tộc và có tư tưởng lành mạnh nhưng không có được ý thức cách mạng và tinh thần chống đối trực tiếp chính quyền thực dân. Ngay trong bộ phận này cũng có nhiều xu hướng khác nhau: hiện thực, lãng mạn…
- Bộ phận văn học phát triển bất hợp pháp và nửa hợp pháp (không công khai) là sản phẩm của các nhà văn – chiến sĩ. Đây là bộ phận văn học cách mạng. Nó sẽ trở thành dòng chủ của văn học VN sau này.
c) Nguyên nhân khiến văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng:
- Do thúc bách của thời đại.
- Do sức sống nội tại của nề văn học dân tộc.
- Do sự thức tỉnh ý thức cá tôi cá nhân.
- Văn chương đã trở thành nghề kiếm sống.
Câu 2. Về thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945:
a) Những truyền thống tư tưởng lớn nhất, sâu sắc nhất của lịch sử văn học Việt Nam là gì? Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 có đóng góp gì mới cho những truyền thống ấy?
b) Những thể loại văn học nào mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945? Sự cách tân, hiện đại hoá các thể loại tiểu thuyết và thơ diễn ra như thế nào?
Trả lời:
a) Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 đã kế thừa và phát huy những truyền thống quý báu của văn học dân tộc la chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo:
- Lòng yêu nước gắn liền với quê hương đất nước, trân trọng truyền thống văn hóa dân tộc, ca ngợi cảnh đẹp của quê hương đất nước, lòng yêu nước gắn kiền với tinh thần quốc tế vô sản.
- Chủ nghĩa nhân đạo gắn với sự thức tỉnh ý thức cá nhân của người cầm bút.
Bên cạnh đó, văn học có đóng góp mới là của thời đại là tinh thần dân chủ: quan tâm tới con người bình thường trong xã hội, nhất là tầng lớp nhân dân khổ cực, lầm rhan. Các nhà văn còn thể hiện khát vọng mãnh liệt của mỗi cá nhân, đề cao vẻ đẹp hình thức, phẩm giá và phát huy cao độ tài năng của mỗi người.
b) Văn học đạt được nhiều thành tựu, tiêu biểu các thể loại của văn xuôi được kết tinh ở tiểu thuyết và truyện ngắn:
- Tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ ra đời đến những năm 30 được đẩy lên một bước mới. Nhóm Tự lực văn đoàn với nhiều tác phẩm xuất sắc đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới: cách dựng truyện tự nhiên, kết cấu linh hoạt…, ngôn ngư giản dị, cảm xúc…
- Truyện ngắn đạt được thành tựu phong phú và vững chắc, với các đề tài về truyện ngắn trào phúng, truyện ngắn trữ tình, truyện ngắn viết về người nông dân và người trí thức nghèo…
- Phóng sự ra đời đầu những năm 30 và phát triển mạnh. Cùng với phóng sự, kịch nói cũng là thể loại mới và gây được tiếng vang lớn.
- Bút kí, tuỳ bút, kịch, phê bình văn học phát triển.
Soạn phần luyện tập bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 trang 91 SGK ngữ văn 11 tập 1
Câu hỏi: Vì sao có thể gọi văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX (từ 1900 đến 1930) là văn học giai đoạn giao thời?
Trả lời:
Gọi thời đoạn văn học 1900 – 1930 là văn học giao thời, vì ở giai đoạn này có những thay đổi về mặt nội dung, nghệ thuật khá hiện đại, nhưng vẫn còn tồn đọng những hơi hướng của văn học trung đại. Văn học giai đoạn này mang dáng dấp của những sự cách tân, nhưng vẫn chưa thoát khỏi hẳn thi pháp văn học trung đại. Sự đổi mới còn có những trở ngại nhất định, bởi sự níu kéo của cái cũ.
Những sáng tác của Hồ Biểu Chánh: vẫn còn kết cấu chương hồi quen thuộc, ngôn ngữ, kết cấu,… của văn học Trung Đại.
Tản Đà được xem là cầu nối giao thời 2 nền văn học Sáng tác của ông vừa có những thi liệu, thi tứ, hình thức của thơ trung đại, vừa mang những hơi thở đầu tiên của văn học hiện đại.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment