X

Soạn bài – Đọc Tiểu Thanh Kí (Độc tiểu thanh kí)

Soạn bài Đọc Tiểu Thanh Kí (Độc tiểu thanh kí) trang 131 – 134 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Đọc Tiểu Thanh Kí (Độc tiểu thanh kí), sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

ĐỌC TIỂU THANH KÍ

NGUYỄN DU

TIỂU DẪN

Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Vốn thông minh nên từ nhỏ cô đã thông hiểu nhiều môn nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. Năm 16 tuổi, cô làm vợ lẽ một nhà quyền quý. Vợ cả là người hay ghen, bắt cô phải sống riêng trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Vì đau buồn, cô sinh bệnh rồi chết ở tuổi 18. Nỗi uất ức, đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng nhiều bài đã bị người vợ cả đốt, may mắn có một số bài thơ còn sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt tên là Phân dư (Bị đốt còn sót lại). Thương xót cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài sắc là một cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du. Nhà thơ không chỉ khóc nàng Tiểu Thanh mà còn khóc nàng Kiều.

Sắc đẹp, tài năng thơ ca, đàn hát là những giá trị tinh thần cao đẹp, nhưng chủ nhân của những giá trị đó lại phải chịu số phận bất hạnh. Hiện tượgn này được Nguyễn Du nêu lên thành một vấn đề lớn trong sáng tác của ông. Tiên phong Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyển từng có lời bình Truyện Kiều như sau: “Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm Truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông lụy của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy”.

Về tên bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí (Đọc Tiểu Thanh kí) có hai cách giải thích. Cách thứ nhất: Tiểu Thanh kí là tập thơ của nàng Tiểu Thanh. Vậy tên bài thơ phải hiểu là Đọc tập thơ của Tiểu Thanh. Cách thứ hai: Tiểu Thanh kí là tên truyện viết về nàng Tiểu Thanh. Hiện nay người ta chỉ biết có Tiểu Thanh truyện. Có thể Nguyễn DU đã đọc Tiểu Thanh truyện.

VĂN BẢN

Phiên âm

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch nghĩa:

Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi,
Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ (1).
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết (2),
Văn chương không có mệnh mà cũng bị đốt dở.
Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được,
Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã (3).
Không biết hơn ba trăm năm sau,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như (4)?

Dịch thơ:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Vũ Tam Tập dịch (Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1965)

CHÚ THÍCH

(1) Ý nói: đọc tập kí kể về cuộc đời Tiểu Thanh.

(2) Ý nói: người đẹp linh thiêng nên chết đi vẫn khiên người đời thương tiếc.

(3) Ý nói: Nguyễn Du đồng cảm với thân phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh vì ông cũng cùng thân phận.

(4) Bây giờ ta khóc nàng Tiểu Thanh, không biết ba trăm năm nữa ai sẽ là người khóc ta. Hai câu kể đi liền mạch với hai câu luận ở trên. Ba trăm năm không nhất thiết phải là con số chính xác mà có thể chỉ số nhiều. Tố Như là tên chữ của Nguyễn Du.

Đọc thêm bản dịch thơ

Hồ Tây hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang tho chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại (1),
Tro chưa tàn hết lụy văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
Quách Tấn dịch, (Tạp chí Văn, số đặc biệt “Tưởng niệm Nguyễn Du”, Sài Gòn, 1967)

Trước song giấy mực viếng nàng,
Hồ Tây vườn cũ; gò hoang bây giờ.
Xưa nay trời vẫn làm ngơ,
Mối oan thêm một người thơ buộc mình.
Hoa tàn lệ rỏ hương thanh;
Văn chương phận mỏng chưa đành tro bay!
Rồi ba trăm năm sau đây
Còn ai khóc Tố Như này nữa chăng?

Vũ Hoàng Chương dịch, (Nguyệt san Tân văn, số 8, Sài Gòn, 12- 1968)

Hướng dẫn soạn bài – Đọc Tiểu Thanh Kí (Độc tiểu thanh kí)

I. Bố cục:

– Hai câu thơ đề (1, 2): Nguyễn Du đọc phần dư cảo Tiểu Thanh để lại.

– Hai câu thơ thực (3, 4): Số phận tài hoa bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh.

– Hai câu thơ luận (5, 6): Nỗi niềm suy tư, đồng cảm của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh.

– Hai câu thơ kết (7, 8): Từ thương xót Tiểu Thanh, Nguyễn Du thương xót cho chính số phận mình.

II. Hướng dẫn soạn bài Đọc Tiểu Thanh Kí (Độc tiểu thanh kí) chi tiết.

Giải câu 1 (Trang 133 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Theo anh (chị), vì sao Nguyễn Du lại đồng cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh?

Trả lời:

Tiểu Thanh có sắc, lại có tài (thơ phú văn chương) thế nhưng cuộc đời của nàng lại gặp quá nhiều bi kịch (phải làm lẽ, bị dập vùi, trước tác bị đốt dở dang). Số phận hẩm hiu, đau khổ của nàng chính là lí do khiến Nguyễn Du cảm thương chia sẻ. Đồng thời cũng từ bi kịch của Tiểu Thanh, nhà thơ suy nghĩ về định mệnh nghiệt ngã của những người có tài văn chương, nghệ thuật.

Giải câu 2 (Trang 133 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Câu “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi” có nghĩa gì? Nỗi hờn (hận) ở đây là gì? Tại sao tác giả cho là không thể hỏi trời được?

Trả lời:

Trong câu thơ dịch, chữ “nỗi hờn” (nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi) chưa diễn đạt được hết ý nghĩa của hai từ “hận sự”. Mối hận “cổ kim” ở đây nghĩa là mối hận của người xa (như Tiểu Thanh) và người thời nay (những người phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” đang sống cùng thời với Nguyễn Du, thậm chí cả những con người có tài năng thơ phú như nhà thơ Nguyễn Du nữa. Họ đều là những người đã gặp bao điều không may trong cuộc sống. Từ đó, nhà thơ của chúng ta cho rằng: Có một thông lệ vô cùng nghiệt ngã đó là ông trời luôn bất công với những con người tài sắc. Sự bất công ấy đâu chỉ đến với riêng người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Tiểu Thanh mà còn là nỗi hận của bao người (những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…). Nỗi hận ấy từ hàng trăm năm nay đâu có gì thay đổi. Bởi vậy nó như một câu hỏi lớn không lời đáp cứ treo lơ lửng giữa không trung đến “ông trời” cũng “không hỏi được”.

Giải câu 3 (Trang 133 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh. Điều đó nói gì về tấm lòng của nhà thơ?

Trả lời:

Nguyễn Du thương cảm số phận của nàng Tiểu Thanh, một người giỏi thơ văn, xinh đẹp mà bất hạnh. Niềm thương cảm đó, ngoài ý nghĩa là sự thương cảm dành cho số phận một người bất hạnh (cũng như nàng Kiều, hay nàng ca nữ đất Long Thành…), còn là niềm thương cảm dành cho một người nghệ sĩ. Ông đau đớn bởi “Văn chươn không có số mệnh mà bị đốt bỏ”. Ông trân trọng những giá trị tinh thần của người nghệ sĩ (ở đây là một nữ nghệ sĩ), đó là một giá trị nhân bản tiến bộ của Nguyễn Du.

Giải câu 4 (Trang 133 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Phân tích vai trò của mỗi đoạn thơ (đề, thực, luận, kết) đối với chủ đề toàn bài.

Trả lời:

Có thể chia bài thơ thành bốn phần, mỗi phần lại có vai trò riêng trong việc thể hiện chủ đề của bài thơ.

– Hai câu đề là hai câu tả cảnh để mà kể việc. Từ quang cảnh hoa phế ở Tây Hồ, người đọc liên tưởng đến cuộc đời thay đổi. Hai câu này cũng nêu ra hoàn cảnh nảy sinh cảm xúc của nhà thơ (phần “di cảo” thơ của Tiểu Thanh).

– Hai câu thực nêu lên những suy nghĩ về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh thông qua hai hình ảnh ẩn dụ son phấn (vẻ đẹp) và văn chương (tài năng).

– Hai câu luận bắt đầu khái quát, nâng vấn đề, liên hệ thân phận của nàng Tiểu Thanh với những bậc văn nhân tài tử trong đó có nhà thơ.

– Hai câu kết là tiếng lòng của nhà thơ mong tìm thấy một tiếng lòng đồng cảm của người đời sau.

Soạn phần luyện tập bài Đọc Tiểu Thanh Kí (Độc tiểu thanh kí)

Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 134 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Đọc đoạn thơ sau đây trong Truỵên Kiều (từ câu 107 đến câu 110) và chỉ ra điểm tương đồng với bài Đọc Tiểu Thanh kí:

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?

Gợi ý: Tìm hiểu xem đoạn thơ này viết về nhân vật nào, lời nói trên là của ai. Từ đó, tìm ra đề tài mà Nguyễn Du quan tâm trong các sáng tác của ông.

Trả lời:

Là lời của Thúy Kiều nói về nhân vật Đạm Tiên. Khi thấy chị sụt sùi trước mộ của Đạm Tiên, Thúy Vân đã nói:

Vân rằng: “Chị cũng nực cười”
Khéo dư nước mắt khóc người đời xa.

Nghe xong câu này, Thúy Kiều đã nói những câu trên để đáp lời Thúy Vân. Tuy nhiên trong Truyện Kiều có rất nhiều đoạn đối thoại bắt đầu bằng từ “rằng” như ở đoạn thơ này. Trong trường hợp ấy, người ta cũng có thể hiểu đó là lời của tác giả (Nguyễn Du). Căn cứ vào nội dung của đoạn thơ, có thể thấy đề tài mà Nguyễn Du quan tâm trong các sáng tác của ông là hình ảnh những con người tài hoa mà bạc mệnh.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Đọc Tiểu Thanh Kí (Độc tiểu thanh kí)

Câu 1. Theo anh (chị), vì sao Nguyễn Du lại đồng cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh?

Trả lời:

– Tiểu Thanh là cô gái có tài có sắc, nhưng chính cô và cả những áng văn thơ cô để lại phải chịu kết cục bi thảm.

– Nguyễn Du cũng là người có tài năng, có học vấn nhưng số phận lại lênh đênh, bấp bênh, nhiều trắc trở. Vì vậy sự đồng cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh xuất phát từ sự đồng cảnh ngộ.

Câu 2. Câu “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi” có nghĩa gì? Nỗi hờn (hận) ở đây là gì? Tại sao tác giả cho là không thể hỏi trời được?

Trả lời:

– Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi: Nỗi oán hận từ xưa tới nay hỏi trời nhưng đều không thấu, đều không có được câu trả lời.

– Nỗi hờn ở đây là nỗi uất hận của những số phận tài hoa nhưng bạc mệnh, có tài năng nhưng lại bị vùi dập, ganh ghét.

– Nỗi hờn ấy không thể hỏi trời được bởi Nguyễn Du cho rằng đó là “phong vận kì oan ngã tự cư” là kiếp oan sai mà con người tài năng tự mang lấy, đó là định mệnh không thể đổi dời.

Câu 3. Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh. Điều đó nói gì về tấm lòng của nhà thơ?

Trả lời:

– Điều đó thể hiện rằng Nguyễn Du mang một tấm lòng nhân đạo, bác ái, luôn yêu thương con người, vì vậy mà ông đau khổ trước những oan trái mà con người phải gánh chịu.

Câu 4. Phân tích vai trò của mỗi đoạn thơ (đề, thực, luận, kết) đối với chủ đề toàn bài.

Trả lời:

– Đoạn thơ đề: tạo tiền đề về không gian, bối cảnh, nâng đỡ dòng cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ

– Đoạn thơ thực: Là cơ sở thực tiễn, xác đáng cho tư tưởng cảm xúc của toàn bài thơ.

– Đoạn thơ luận: Khắc sâu hơn chủ đề của tác phẩm, đi từ một số phận cụ thể khái quát thành một lẽ đời.

– Đoạn thơ kết: Thể hiện cái tôi của tác giả, đồng thời khẳng định phần nào mối liên hệ giữa văn chương với người sáng tác ra nó, hai câu kết mở rộng chủ đề của bài thơ.

Soạn phần luyện tập bài Đọc Tiểu Thanh Kí (Độc tiểu thanh kí) (trang 147 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Câu 1. Đọc đoạn thơ sau đây trong Truỵên Kiều (từ câu 107 đến câu 110) và chỉ ra điểm tương đồng với bài Đọc Tiểu Thanh kí:

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?

Trả lời:

– Thể hiện nỗi xót thương cho những kiếp người hồng nhan bạc mệnh, tài hoa bạc phận (Thúy Kiều và Tiểu Thanh).

– Tác giả thông qua số phận một cá nhân để khái quát lên thành một bi kịch chung cho những người đồng cảnh ngộ như Thúy Kiều và Tiểu Thanh.

– Hai câu thơ cuối đều là lời suy ngẫm, xót thương của tác giả về chính số phận của mình.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

Ngọc Lan: Ngủ dậy muộn thì phí mất cả ngày, ở tuổi thanh niên mà không học tập thì phí mất cả cuộc đời .
Leave a Comment