Soạn bài – Đọc thêm: Dọn về làng

Soạn bài Đọc thêm: Dọn về làng trang 139 – 141 SGK ngữ văn lớp 12 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Đọc thêm: Dọn về làng, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

Đọc Thêm: Dọn Về Làng

Nông Quốc Chấn

Tiểu Dẫn

Nông Quốc Chấn (1923 – 2002), tên khai sinh là Nông Văn Quỳnh, dân tộc Tày, quê ở xã Châu Khê (nay là xã cốc Đán), huyện Ngân Sơn, tinh Bắc Cạn. Ôn tham gia cách mạng từ trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Trong kháng chiến chống thực dân pháp, Nông Quốc Chấn công tác ở Tinh uỷ Bắc Cạn và bắt đầu hoạt động văn hoá, văn nghệ. Ông từng giữ nhiều trọng trách: Chủ tịch Hội Văn nghệ Khu Việt Bắc, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hoá Hà Nội,…

Tác phẩm chính: Tiếng ca người Việt Bắc (thơ, 1959), là Đèo gió (thơ, 1968), Suối và biển (thơ, 1984), cùng một số tập thơ sáng tác bằng tiếng Tày như Việt Bắc đánh giặc, Tiếng luợn cần Việt Bắc, Dám kha Pác Bó,…

Nông Quốc Chấn là một trong những gương mặt văn hoá tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức các dân tộc thiểu số trưởng thành trong đấu tranh cách mạng và chiến tranh vệ quốc. Đóng góp nổi trội của ông trong lĩnh vực sáng tác là thơ. Thơ Nông Quốc Chấn mang xúc cảm chân thành, chất phác, lời thơ toát lên nét riêng biệt trong suy tư và diễn đạt của người miền núi: giản dị, tự nhiên và giàu hình ảnh. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Dọn về làng (1950) là bài thơ viết về quê hương tác giả trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp nhiều đau thương mà anh dũng. Bài thơ được trao giải Nhì tại Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới ở Béc-lin, sau đó được dịch đăng trên tạp chí Châu âu.

Văn Bản

Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi
Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ
Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai
Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy
Chạy hết núi khe, cay đáng đủ mùi
Nhớ một hôm mịt mù mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Đường đi lại vắt bám đầy chân.
súng nổ kìa Giặc Tây lại đến lùng,
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,
Nó vét hết áo quần trong túi,
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nải
Bà bị loà mắt không biết lối bước đi.
Làm sao bây giờ? Ta phải chống,
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh
Cha chữi Việt gian, cha đánh lại Tây
Súng liền nổ ngay cùng một loạt
Cha ngã xuống nằm trên mặt đất
Cha ơi! Cha không biết nói rồi…
Chúng con còn thơ, ai dạy nuôi
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín”, con im
Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi chôn cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng
Con cởi áo liệm thân cho bố,
Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng
Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả!
Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỗ lay trong rừng rậm
Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con
Đường cái kêu vang tiếng ô tô
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá
Từ nay không ngập cỏ lối đi
Hổ không dám đến đẻ con trong vườn chuối
Quả trong vườn không lo tự chín, tự rụng
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng
Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà
Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.

Mùa đông, 1950

(Tác giả dịch từ tiếng Tày, Tuyển tập Nông Quốc Chấn,
NXB Văn học, Hà Nội, 1988)

Hướng dẫn soạn bài – Đọc thêm: Dọn về làng

I. Tác giả & tác phẩm

1. Tác giả

Nông Quốc Chân (1923 – 2002), tên khai sinh là Nông Văn Quỳnh, dân tộc Tày, quê ở xã Châu Khê (nay là xã Cốc Đán), huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn.

Đóng góp nổi bật của ông trong lĩnh vực sáng tác là thơ. Thơ Nông Quốc Chấn mang cảm xúc chân thành, chất phác, lời thơ toát lên nét riêng biệt trong suy tư và diễn đạt của người miền núi: giản dị, tự nhiên và giàu hình ảnh.

2. Tác phẩm

Dọn về làng (1950) là bài thơ viết về quê hương tác giả trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp nhiều đau thương mà anh dũng. Bài thơ được trao giải Nhì tại Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới ở Béc – lin, sau đó được dịch đăng lên tạp chí Châu Âu.

II. Hướng dẫn soạn bài Đọc thêm: Dọn về làng chi tiết.

Giải câu 1 (Trang 141 SGK ngữ văn 12 tập 1)

Cuộc sống gian khổ của nhân dân Cao – Bắc – Lạng và tội ác của giặc Pháp đã được diễn tả như thế nào?

Trả lời:

Cuộc sống gian khổ của nhân dân Cao – Bắc – Lạng và tội ác của giặc Pháp đã được diễn tả:

* Nỗi thống khổ của nhân dân được diễn đạt rất cụ thể bằng những từ ngữ, hình ảnh gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân tộc miền núi.

Mấy năm…: thời gian kéo dài.

Quên tết… quên rằm…

Chạy hết núi khe, cay đắng…

Lán sụp, núi khe, vắt bám

Mẹ địu em chạy, con sau lưng tay dắt bà, vai đầy tay nải,…

→ Cuộc sống yên ấm bị đảo lộn, nhà cửa tan hoang, gia đình li tán, cơ cực.

* Tội ác của giặc

– Nó đốt từng cái lán, vơ hết quần áo trong túi.

– Giặc giết người cha thân yêu → tái hiện những chi tiết xúc động: “cha ngã xuống… cha không biết nói rồi”.

– Hình ảnh người mẹ đau khổ, xót xa:

“Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng

Con cởi áo liệm thân cho bố”

→ Bản cáo trạng tố cáo thực dân xâm lược. Qua đó bộc lộ tinh thần chịu đựng và tình cảm yêu nước của nhân dân.

Giải câu 2 (Trang 141 SGK ngữ văn 12 tập 1)

Nét độc đáo trong cách thể hiện niềm vui Cao – Bắc – Lạng được giải phóng qua phần đầu và phần cuối cửa bài thơ?

Trả lời:

Nét độc đáo trong cách thể hiện niềm vui Cao – Bắc – Lạng được giải phóng được thể hiện:

* Qua phần đầu bài thơ: được thể hiện qua các hình ảnh, từ ngữ:

+ Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng

+ Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn.

+ Chiếm lại các đồn.

+ Sửa nhà phát cỏ… trồng lúa, ngô, khoai.

→ Niềm vui sướng khi trở lại cuộc sống tự do, làm ăn bình thường.

* Phần cuối bài thơ

– Hình ảnh, từ ngữ kết hợp việc sử dụng các động từ:

+ Cười vang

+ Xuống làng

+ Người nói cỏ lay

+ Ô tô kêu vang đường cái

+ Ríu rít tiếng cười con trẻ…

→ Niềm vui, hân hoan khi quê hương lần nữa trở lại cuộc sống thanh bình.

“Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”

=> Lời khẳng định thể hiện sự quyết tâm, hứa hẹn.

Giải câu 3 (Trang 141 SGK ngữ văn 12 tập 1)

Phân tích màu sắc dân tộc được biểu hiện qua cách sử dụng hình ảnh của tác giả

Trả lời:

Màu sắc dân tộc được thể hiện qua cách sử dụng hình ảnh của tác giả:

– Lối diễn đạt giản dị, nhưng dễ hiểu, thể hiện chân thực, đằm thắm của con người miền núi.

– Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh: Người đông như kiến, súng đầy như cửi,…

→ Cụ thể, gần gũi.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Đọc thêm: Dọn về làng

Câu 1. Cuộc sống gian khổ của nhân dân Cao – Bắc – Lạng và tội ác của giặc Pháp đã được diễn tả như thế nào?

Trả lời:

Cuộc sống gian khổ của người dân Cao Bắc Lạng được thể hiện qua các hình ảnh:

+ Mấy năm: thời gian kéo dài

+ Quên tết… quên rằm …

+ Chạy hết núi khe, cay đắng …

+ Lán sụp; nát cửa; vắt bám

+ Mẹ địu em chạy; con sau lưng tay dắt bà; vai đầy tay nải…

+ Cuộc sống yên ấm bị đảo lộn, nhà cửa tan hoang, gia đình li tán, cơ cực.

=> Hiệu quả nghệ thuật của việc xây dựng cảnh tượng thê thảm như trên là gây nên những ấn tượng mạnh vì nó tác động vào người đọc bằng những hình ảnh cụ thể: “Cha ngã xuống”, “phủ mặt cho chồng”, “máu đầy tay”…

– Tội ác của giặc Pháp:

+ Lán đốt trơ trụi, súng nổ, Tây lùng.

+ Áo quần bị vơ vét.

+ Cha bị bắt, bị đánh chết.

+ Chôn cất cha; bằng khăn của mẹ; liệm bằng áo của con

+ Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt …

=> Thái độ của tác giả khi kể tội ác của giặc Pháp: xót xa, đau đớn, căm thù đến tột độ và muốn hành động trả thù: “Mày sẽ chết, thằng giặc Pháp hung tàn băm xương thịt mày mới hả”.

Câu 2. Nét độc đáo trong cách thể hiện niềm vui Cao – Bắc – Lạng được giải phóng qua phần đầu và phần cuối cửa bài thơ?

Trả lời:

– Nằm trong kết cấu trình tự: hiện tại – quá khứ – hiện tại, hai đoạn thơ thể hiện niềm vui Cao – Bắc – Lạng được giải phóng là hai đoạn đứng ở thời điểm hiện tại. Mở đầu là những câu thơ tràn đầy niềm vui chiến thắng khi quê hương hoàn toàn giải phóng. Kết thúc là bức tranh đẹp của ngày dọn về làng.

– Niềm vui của nhân dân khi quê hương được giải phóng được diễn tả độc đóa qua hình ảnh, từ ngữ: Cười vang, Xuống làng, Người nói cỏ lay, Ô tô kêu vang đường cái, Ríu rít tiếng cười con trẻ …. Mật độ động từ dày đặc diễn tả xúc cảm mừng vui, hân hoan khi quê hương đã trở lại cuộc sống thanh bình.

– Nét độc đáo trong cách thể hiện niềm vui là các hình ảnh, cách so sánh, cách diễn đạt… mang đậm chất miền núi: hồn hậu, chân thực, chất phác, tự nhiên.

– Giọng điệu thơ tươi vui, sung sướng (đối lập với uất hận, căm thù, buồn tủi ở đoạn giữa).

Câu 3. Phân tích màu sắc dân tộc được biểu hiện qua cách sử dụng hình ảnh của tác giả

Trả lời:

Hình ảnh giản dị, gần gũi với cuộc sống hằng ngày, lối diễn đạt tự nhiên, giàu hình ảnh, không cầu kì, hoa mĩ, trau chuốt. Dù miêu tả trực tiếp hay gián tiếp đều thể hiện cách cảm, cách nghĩ của đồng bào các dân tộc thiểu số:

– Hình ánh so sánh: Người đông như kiến, súng đầy như củi; Người nói cỏ lay trong rừng rậm; Hổ không dám đến đẻ con trong vườn chuối; …

– Từ ngữ: hàng đàn; quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy; mày; tao …

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status