Soạn bài – Cô Tô (Nguyễn Tuân)

Soạn bài Cô Tô (Nguyễn Tuân) trang 88 – 92 SGK ngữ văn lớp 6 tập 2, Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Cô Tô (Nguyễn Tuân) sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ và chi tiết nhất.

Soan bai co to nguyen tuan sgk ngu van 6 tap 2 hinh anh 1

CÔ TÔ

Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô(1) là một ngày trong trẻo, sáng sủa. Từ khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão, thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi(2). Chúng tôi leo dốc lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh(3) cũ ấy. Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô. Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây.

…Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân(4) một cách thật quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư(5), ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán, thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể(6) sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ(7) đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén(9). Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh…

Khi mặt trời đã lên một vài con sào, tức là lúc nó trở về sự bình dị hằng ngày, thì tôi đang múc gầu nước giếng dội lên đầu lên cổ lên vai lên lưng, nghĩa là tôi cũng đang đi tắm như mọi người lao động bình thường đang tắm quanh giếng. Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền.

Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong những ang(10) gốm màu da lươn. Lòng giếng vẫn còn rớt lại vài cái lá cam lá quýt của trận bão vừa rồi quăng vào. Chỗ bãi đá nuôi sáu mươi vạn con hải sâm(11) ngoài kia, bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp đổ nước ngọt vào. Sau trận bão, hôm nay hợp tác xã Bắc Loan Đầu cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng(12). Anh hùng Châu Hòa Mãn(13) cùng bốn bạn xã viên đi chung một thuyền. Anh quẩy nước bên bờ giếng, tôi né ra một bên. Anh quẩy mười lăm gánh cho thuyền anh: “Đi ra khơi, xa lắm mà, có khi mười ngày mới về. Nước ngọt cho vào sạp, chỉ để uống. Vo gạo thổi cơm cũng không được lấy nước ngọt. Vo gạo bằng nước bể thôi”.

Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về. Trông chị Châu Hòa Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành.

(Nguyễn Tuân(*), Kí, NXB Văn học, Hà Nội, 1976)

Chú thích

(*) Nguyễn Tuân (1910-1987) quê ở Hà Nội, là nhà văn nổi tiếng, sở trường về thể tùy bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện.

Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô – tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn Nguyễn Tuân thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.

(1) Cô Tô: quần đảo gồm nhiều đảo nhỏ trong vịnh Bái Tử Long (thuộc vịnh Bắc Bộ), cách bờ biển tỉnh Quảng Ninh khoảng 100km. Ngoài cá, biển Cô Tô còn nổi tiếng về mực, ngọc trai, hải sâm, bào ngư.

(2) Giã đôi: giã do hai tàu hoặc thuyền kéo (giã: lưới hình túi, dùng tàu thuyền kéo để bắt cá và hải sản khác ở tầng đáy hoặc gần đáy biển).

(3) Khố xanh: một sắc lính trong quân đội thuộc địa dưới chế độ thực dân Pháp. Lính khố xanh canh giữ các công sở, địa phương, chân có quấn xà cạp màu xanh để phân biệt với các sắc lính khác.

(4) Thanh Luân: một đảo trong quần đảo Cô Tô.

(5) Đá đầu sư: đá có đầu tròn, nhẵn như đầu ông sư, thường quần tụ thành bãi.

(6) Ngấn bể: đường tiếp giáp giữa mặt biển và chân trời theo tầm nhìn của mắt.

(7) Đường bệ: dáng vẻ to lớn, vững vàng, uy nghi.

(8) Trường thọ: sống rất lâu (trường: dài, thọ: sống lâu).

(9) Bạc nén: bạc đúc thành từng thỏi (nén: đơn vị đo khối lượng, bằng mười lạng ta, tức khoảng 375 gram).

(10) Cong, ang: cong: đồ đựng bằng sành, hông phình, miệng rộng; ang: đồ đựng nước bằng đất nung, thành hơi phình, miệng rộng.

(11) Hải sâm: động vật ở biển, thân tròn, dài và mềm, da có gai nhỏ, hình giống quả dưa chuột (dưa leo), sống ở vùng đáy biển, là một thực phẩm quý.

(12) Cá hồng: cá biển sống ở tầng đáy, thân hình bầu dục, có vệt màu đỏ.

(13) Châu Hòa Mãn: Anh hùng lao động ngành ngư nghiệp, chủ nhiệm một hợp tác xã đánh cá ở đảo Cô Tô, vào những năm 60 của thế kỉ XX.

Hướng dẫn soạn bài – Cô Tô (Nguyễn Tuân)

I. Đọc hiểu văn bản

Giải câu 1 Cô Tô (Nguyễn Tuân) (Trang 92 SGK ngữ văn 6 tập 2)

Câu 1. Bài văn có thể chia làm mấy đoạn? Nội dung chính của mỗi đoạn là gì?

Trả lời:

Đoạn văn có thể chia thành 3 đoạn:

– Phần 1 (từ đầu đến theo mùa sóng ở đây): Cảnh đẹp Cô Tô sau khi bão đi qua

– Phần 2 (tiếp đến là là nhịp cánh…): Cảnh tráng lệ, hùng vĩ của Cô Tô buổi bình minh

– Phần 3 (còn lại): Cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô

Giải câu 2 Cô Tô (Nguyễn Tuân) (Trang 92 SGK ngữ văn 6 tập 2)

Câu 2. Vẻ đẹp trong sáng của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua đã được miêu tả như thế nào? Em hãy tìm và nhận xét những từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh diễn tả vẻ đẹp ấy trong đoạn đầu của bài.

Trả lời:

Những từ ngữ, chi tiết miêu tả vẻ đẹp của Cô Tô sau khi trận bão đi qua:

+ Một ngày trong trẻo, sáng sủa

+ Cây thêm xanh mượt

+ Nước biển lam biếc đậm đà hơn

+ Cát lại vàng giòn hơn

+ Lưới nặng mẻ cá giã đôi

– Các tính từ miêu tả màu sắc, ánh sáng: trong trẻo, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn

– Nổi bật các hình ảnh: bầu trời, nước biển, cây trên núi đảo, bãi cát khiến khung cảnh Cô Tô hiện lên thật trong sáng, tinh khôi

→ Tác giả cảm nhận vẻ đẹp Cô Tô sau ngày bão hoàn toàn tinh khiết, lắng đọng

Giải câu 3 Cô Tô (Nguyễn Tuân) (Trang 92 SGK ngữ văn 6 tập 2)

Câu 3. Đoạn tả cảnh mặt trời mọc trên biển (từ Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu đến Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh) là một bức tranh rất đẹp. Em hãy tìm những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc, những hình ảnh mà tác giả đã dùng để vẽ nên cảnh đẹp rực rỡ ấy. Nhận xét về những hình ảnh so sánh mà tác giả dùng ở đây.

Trả lời:

Hình ảnh mặt trời mọc trên biển là bức tranh đẹp, được tác giả thể hiện qua từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và hình ảnh so sánh:

+ Chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi

+ Mặt trời nhú lên dần dần

+ Tròn trĩnh, phúc hậu như một quả trứng thiên nhiên đầy đặn

+ Qủa trứng hồng hào… nước biển ửng hồng

+ Y như một mâm lễ phẩm

– Tác giả sử dụng từ ngữ chính xác, tinh tế, lối so sánh thật rực rỡ, tráng lệ.

→ Hình ảnh mặt trời trên biển huy hoàng, rực rỡ với tài quan sát tinh tế, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong sự giao thoa hân hoan giữa con người với thế giới.

Giải câu 4 Cô Tô (Nguyễn Tuân) (Trang 92 SGK ngữ văn 6 tập 2)

Câu 4. Cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo đã được miêu tả qua những chi tiết, hình ảnh nào trong đoạn cuối bài văn? Em có cảm nghĩ gì về cảnh ấy?

Trả lời:

Cảnh người dân sinh hoạt và lao động được miêu tả qua các chi tiết, hình ảnh:

– Quanh giếng nước ngọt: vui nhộn như một cái bến và đậm đà mát nhẹ

– Chỗ bãi đá: bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp…

– Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về.

→ Cảnh lao động của người dân trên đảo khẩn trương, tấp nập.

– Đó là cuộc sống thanh bình: Trông chị Châu Hòa Mãn địu con… lũ con hiền lành.

→ Tác giả thể hiện sự đan quyện cảm xúc giữa người và cảnh, đồng thời thể hiện tình yêu Cô Tô của riêng Nguyễn Tuân.

Soạn phần luyện tập bài Cô Tô (Nguyễn Tuân)

Giải câu 1 luyện tập Cô Tô (Nguyễn Tuân) (Trang 92 SGK ngữ văn 6 tập 2)

Câu 1. Em hãy viết một đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc (trên biển, trên sông, trên núi hay ở đồng bằng) mà em đã quan sát được.

Trả lời:

Đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc:

Bình minh trên biển mang trong mình tất cả vẻ đẹp của sự tinh khôi, trong trẻo của trời đất. Phóng tầm mắt ra xa, nước bốn bề mênh mông một màu xanh lục, những con sóng nhẹ nhàng vỗ vào bờ cát mơn man. Mặt trời tròn vành vạnh từ từ nhô mình lên khỏi mặt biển còn đang ngái ngủ, làm lóng lánh cả một vùng nước bạc. Trong ánh nắng dịu dàng buổi sớm mai, những làn hơi sương mỏng trên mặt biển dần tan ra, lộ rõ vẻ đẹp tinh khôi của biển. Xa xa thấp thoáng bóng những cánh chim hải âu nô đùa trên những con sóng biếc… Một bức tranh thiên nhiên mang trong mình vẻ đẹp trong trẻo của sự toàn mĩ.

Giải câu 2 luyện tập Cô Tô (Nguyễn Tuân) (Trang 92 SGK ngữ văn 6 tập 2)

Câu 2. Chép lại và học thuộc đoạn văn (từ Mặt trời nhú lên dần dần đến Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh)

Trả lời:

Chép và học thuộc lòng đoạn văn (từ Mặt trời nhú lên dần dần đến Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh)

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Cô Tô (Nguyễn Tuân)

I. Đọc – hiểu văn bản

Câu 1:

* Bố cục: 3 phần

– Từ đầu đến “ở đây”: Toàn cảnh Cô Tô một ngày sau bão.

– Tiếp theo đến “nhịp cánh”: Cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô.

– Còn lại: Cảnh buổi sớm trên đảo Thanh Luân.

Câu 2:

* Vẻ đẹp trong sáng của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua được miêu tả:

– Bầu trời trong sáng.

– Cây cối trên đảo thêm xanh mượt.

– Nước biển lam biếc, đậm đà.

– Cát lại vàng giòn

– Lưới nặng mẻ.

=> Những từ ngữ chủ yếu là tính từ cho ta thấy màu trắng trong sáng, khung cảnh bao la, vẻ đẹp tươi sáng của đảo Cô Tô.

Câu 3:

* Những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc mà tác giả đã dùng để vẽ nên cảnh đẹp rực rỡ:

– “mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Qủa trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên như một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng.”

– “y như một mâm lễ tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”.

– Màu sắc hài hòa rực rỡ “đỏ hồng, bạc, ngọc trai”.

=> Chi tiết hình ảnh độc đáo đã tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của biển trời Cô Tô.

Câu 4:

* Cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo đã được miêu tả tập trung tại một địa điểm quanh cái giếng nước ngọt ở rìa đảo và những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Cảnh bình dị lao động khẩn trương nhưng lại thanh bình qua các chi tiết “ cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có biết bao nhiêu là người đến gánh và múc…đi đi về về”.

– Cảnh tác giả và mọi người tắm quanh giếng.

– Cảnh chị Châu Hòa Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành.

II. Luyện tập

Câu 1: Viết một đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc mà em quan sát được:

– Quang cảnh lúc mặt trời chưa lên: cả bầu trời là một màu trắng.

– Mặt trời nhú dần lên.

– Không gian cảnh vật lúc mặt trời lên: mặt biển

– Xa xa, đoàn thuyền đánh cá đêm qua đang trở về cùng với bao nhiêu tôm, cá.

Câu 2: Chép và học thuộc đoạn văn “Mặt trời nhú lên dần dần …nhịp cánh”.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status