X

Soạn bài – Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Soạn bài Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) trang 69 – 78 SGK ngữ văn lớp 12 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu

TIỂU DẪN

Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội, theo học Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến năm 1958, ông công tác và chiến đấu tại Sư đoàn 320. Năm 1962, ông về Phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Tác phẩm chính: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977), Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987). Ông cũng có nhiều sáng tác viết cho thiếu nhi như: Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974), Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981), Đảo đá kì lạ (tiểu thuyết, 1985),… và một tập tiểu luận phê bình Trang giấy trước đèn (1994). Đặc biệt, với các tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lau (1989), Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Năm 2000 ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.

VĂN BẢN

(Lược phần đầu: Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án tòa án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Phùng đã “phục kích” mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh.)

Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim, lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.

Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.

Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.

Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhảy lên tàu hỏa trở về, nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở chơi thêm vài bữa.

Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.

Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.

Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mĩ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.

Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.

Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.

Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.

Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi mới biết là nó khỏe đến thế!

Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.

Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.

– Phác, con ơi!

Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt, và cái thằng nhỏ, lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.

Thế rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền. Khoảnh khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu.

Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.

(Lược một đoạn: Biết Phùng chứng kiến sự tàn bạo của cha mình, thằng bé Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà đứa em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương. Không thể nén chịu hơn được nữa, Phùng xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Ở đây anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao sự cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên.)

Đây là lần thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình.

Cũng không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng – cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.

Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong gian phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi.

Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố làm ra vẻ thân mật:

– Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này…

Đẩu phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại.

Đẩu hỏi:

– Thế nào, chị đã nghĩ kĩ chưa?

Người đàn bà ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt xuống.

– Thưa đã…

Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà ngồi, giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án:

– Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?

Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:

– Con lạy quý tòa…

– Sao, sao?

Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…

Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.

Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.

– Chị cứ ngồi nguyên đấy! – Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.

– Tuỳ bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án – chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận…

Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.

– Chị cám ơn các chú! – Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết – Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…

Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác.

Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn…

Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.

Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:

– Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi được ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.

Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:

– Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…

– Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

– Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.

– Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.

– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!

– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.

– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…

– Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.

– Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…

– Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?

– Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?

Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:

– Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.

– Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi.

– Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…

Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ, giấy má. Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.

Người đàn bà đã khóc khi nghe tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác, cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết – nếu không có cách mạng về.

Mụ cho chúng tôi biết, vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay. Ở với ông ngoại, thằng bé sướng hơn ở trên thuyền với bố mẹ. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh.

Chiều hôm ấy trong khi Đẩu gặp lão đàn ông để giáo dục răn dạy lão thì tôi trở lại xưởng đóng thuyền. Vắng thằng Phác, dù sao cái bãi cát cũng như cả vùng phá nước trở nên trống trải thế nào ấy. Đêm, những đàn chim di cư vẫn vỗ cánh trong sương, bay qua vùng phá. Tôi khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya, đã mỏi cả chân, tôi đến ngồi bên một ngọn lửa. Nhúm phoi bào bắt cháy sang mấy cái đầu mẩu gỗ cưa ra từ các lẻ ván của một chiếc thuyền mới vớt lên được, sau vụ đắm thuyền trong vụ bắc năm ngoái.

Gần sáng trời trở gió đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên, cao như những ngọn núi tuyết trắng.

Trong phá, các thứ tàu thuyền đều tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá chẳng hiểu vì sao vẫn còn thấy một chiếc thuyền vó bè đang đậu.

Gió rú ào ào chung quanh chiếc xe Reo vừa mới ở trên rừng xuống, chưa dỡ gỗ xuống hết. Cái ông lão đã ngoài sáu mươi mà vẫn còn theo đuổi nghề sơn tràng đang ngồi bên bếp lửa giữa trời, vẫn đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền.

Cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên chung quanh chỗ tôi và ông lão ngồi. Tôi xem lại xoong cơm đã sống nhăn hộ ông lão đoạn gào lên:

– Chiều gió này không khéo bão cấp 11 rồi?

– Ừ, ừ….! – Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá.

Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.

Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…

8 – 1983
(Nguyễn Minh Châu, Toàn tập, tập 3, NXB Văn học, Hà Nội, 2001)

Hướng dẫn soạn bài – Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

I. Bố cục

Bố cục: Truyện chia làm 2 đoạn lớn:

– Đoạn 1 (Từ đầu đến “chiếc thuyền lưới vó đã biết mất”): Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

– Đoạn 2 (Còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.

II. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Giải câu 1 (Trang 78 SGK ngữ văn 12 tập 2)

Phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng. Anh đã cảm nhận như thế nào về vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương?

Trả lời:

– Phát hiện thứ nhất: bức tranh tuyệt mỹ của cảnh biển mờ sương lúc bình minh.

+ Đó là vẻ đẹp “trời cho”, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ thấy một lần: bức tranh mực tàu, mũi thuyền in một nét mơ hồ, vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc …

=> Cảnh tượng tuyệt đẹp. một bức họa diệu kì của thiên nhiên và cuộc sống, là quà tặng của hóa công.

– Cảm thấy bối rối, tim thắt lại => cảm nhận của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp đỉnh cao, cái tận Chân, Thiện, Mĩ, tâm hồn được thanh lọc.

Giải câu 2 (Trang 78 SGK ngữ văn 12 tập 2)

Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy nghịch lí. Anh đã chứng kiến và có thái độ như thế nào trước những gì diễn ra ở gia đình hàng chài?

Trả lời:

Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng thấy hai vợ chồng hàng chài bước xuống. Anh chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ, đứa con ngăn bố. Những ngày sau đó lại tiếp diễn. Phùng không ngờ sau cảnh đẹp tuyệt đỉnh là bao sự ngang trái, nghịch lí của đời thường. Anh nhận ra sự xa cách giữa cái đẹp của ngoại cảnh với số phận cực nhọc, tăm tối của con người.

Giải câu 3 (Trang 78 SGK ngữ văn 12 tập 2)

Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện nói lên điều gì?

Trả lời:

Câu chuyện ở tòa án huyện: là câu chuyện về sự thật cuộc đời, giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lí: rằng người đàn bà chịu bạo hành, khuất nhục nhưng không ly hôn.Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vô bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi…

=> Khẳng định một cách nhìn của người nghệ sĩ về cuộc đời và con người: không thể nhìn nhận dễ dãi, đơn giản về những sự việc trong cuộc sống.

Giải câu 4 (Trang 78 SGK ngữ văn 12 tập 2)

Nêu cảm nghĩ về các nhân vật: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

Trả lời:

a) Nhân vật người đàn bà

– Ngoại hình: xấu xí, thô kệch

– Số phận, cuộc đời: kém may mắn, lam lũ, vất vả

– Tính cách:

+ Cam chịu, nhẫn nhục: người đàn ông thô lỗ, đánh đập => im lặng, không trả đũa, không chạy trốn.

+ Giàu lòng tự trọng: chồng đánh – không khóc, nhưng sau khi biết hành động vũ phu đã bị thằng Phác và người khách lạ phát hiện: đau đớn, xấu hổ và nhục nhã.

– Sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con => người phụ nữ vị tha, giàu đức hi sinh.

b) Nhân vật người chồng

– Vốn là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành.

– Do cuộc sống khắc nghiệt: biến thành một người vũ phu, tàn bạo, ích kỉ.

=> Vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên đau khổ cho người thân của mình.

c) Chị em thằng Phác

+ Người chị: yếu ớt nhưng can đảm, vật lộn để tước con dao trên tay em => là điểm tựa cho người mẹ, hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lo toan cho mẹ khi phải đến Tòa án.

+ Thắng Phác: thương mẹ, nhưng chỉ nhìn thấy cha nó ở khía cạnh độc ác, tàn nhẫn mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong.

=> Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ lớn lên trong bạo lực, bạo hành.

d) Người nghệ sĩ

– Là người có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm (phát hiện cảnh đẹp …)

– Người lính từng vào sinh ra tử => cảm ghét mọi áp bức bất công, sẵn sàng làm mọi điều vì cái thiện, công bằng.

– Thấu hiểu, thông cảm được những buồn vui, cay đắng ở đời (cảm xúc vỡ òa khi phát hiện sự thật sau cái đẹp, khi nghe người đàn bà nói chuyện …)

Giải câu 5 (Trang 78 SGK ngữ văn 12 tập 2)

Cách xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có nét gì độc đáo?

Trả lời:

Cách xây dựng cốt truyện độc đáo:

Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo. Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt của người nghệ sĩ rung động, say mê trước vẻ đẹp huyền ảo – thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bước ra từ con thuyền “thơ mộng” đó.

Tình huống đó được lặp lại lần nữa: bên cạnh hình ảnh người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính chất người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đầu) và hiểu thêm chính mình.

Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.

Giải câu 6 (Trang 78 SGK ngữ văn 12 tập 2)

Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện có gì đáng chú ý?

Trả lời:

– Ngôn ngữ người kể chuyện: thể hiện qua nhân vật Phùng => tạo điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, thuyết phục.

– Ngôn ngữ nhân vật: phù hợp với đặc điểm tính cách từng người.

=> Ngôn ngữ được sử dụng linh hoạt.

Soạn phần luyện tập bài Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Giải câu hỏi – Luyện tập (Trang 78 SGK ngữ văn 12 tập 2)

Nhân vật nào trong truyện để lại cho anh (chị) ấn tượng sâu sắc nhất? Vì sao?

Trả lời:

Ví dụ: Nghệ sĩ Phùng

– Đây là nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu: Kiểu nhân vật nhận thức. Qua sự việc xảy ra trong truyện, nhân vật dần nhận ra được điều gì đó thật sâu sắc, khác hẳn với những suy nghĩ lúc đầu.

– Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn khẳng định: Người nghệ sĩ gắn bó với cuộc đời phải kiên trì tìm trong hiện thực vẻ đẹp của cuộc sống, đồng thời cũng phải dũng cảm ghi lại những số phận, những cảnh đời còn lam lũ, cực khổ.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Câu 1. Phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng. Anh đã cảm nhận như thế nào về vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương?

Trả lời:

Phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng. Anh đã cảm nhận về vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương:

– Bức tranh toàn bích: chiếc thuyền lưới vỏ, mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe trong sương mờ có pha chút màu hồng hồng, vài bóng người khum khum ngồi im như tượng mặt hướng vào bờ.

-> Tâm trạng của người nghệ sĩ bối rối, tim như bóp thắt lại -> xúc động mãnh liệt trước khoảnh khắc trong ngần của thiên nhiên.

=> Bức tranh từ khung cảnh, đường nét, ánh sáng đều hài hòa và đẹp.

Câu 2. Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy nghịch lí. Anh đã chứng kiến và có thái độ như thế nào trước những gì diễn ra ở gia đình hàng chài?

Trả lời:

Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy nghịch lí: Bức tranh cảnh bạo lực gia đình hàng chài:

– Nghe tiếng người đàn ông quát tháo, đe dọa, rút thắt lưng đánh tới tấp, hàm răng nghiến ken két, nguyền rủa người đàn bà đang nhẫn nhịn chịu đựng.

– Đứa con vì thương mẹ nhảy xổ vào đánh trả nhưng bị hai cái tát từ người cha ngã nhào.

– Người mẹ ôm con vào lòng, buông ra ra váy lạy, ôm con vào, rồi lại buông ra trở về chiếc thuyền.

-> Anh đã chứng kiến cảnh tượng đó và có thái độ chết lặng đến kinh ngạc, há hốc mồm ra nhìn, vứt chiếc máy ảnh đến can thiệp.

=> Nghệ sĩ Phùng cay đắng, xót xa nhận ra một cảnh đời ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài.

Câu 3. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện nói lên điều gì?

Trả lời:

Câu chuyện về cuộc đời đáng thương của người đàn bà hàng chài ẩn chứa những triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người:

– Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc nhỏ bé, giản dị.

– Sự tàn bạo nhiều khi được sinh từ sự nghèo đói, vất vả.

– Câu chuyện của người đàn bà hàng chài càng khẳng định một cách nhìn của người nghệ sĩ về cuộc đời và con người: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng như nó vốn có của cuộc sống.

Câu 4. Nêu cảm nghĩ về các nhân vật: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

Trả lời:

a) Người đàn bà hàng chài:

– Ngoại hình: trạc tuổi 40, cao lớn thô kệch, mặt rỗ, rách rưới, khuôn mặt mệt mỏi.

-> Cuộc sống nghèo khổ lam lũ.

– Tính cách: cam chịu, nhẫn nhục.

– Thương yêu gia đình: không muốn con mình không có bố, cảm thông, thấu hiểu nỗi khổ hiện tại của người chồng, chấp nhận nỗi đau về thể xác.

– Chắt chiu hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống: khi thấy các con được ăn no.

=> Giàu lòng thương yêu gia đình, lòng vị tha, đức hi sinh. Lấy hạnh phúc của các con làm hạnh phúc cho mình.

b) Lão đàn ông độc ác

– Xuất thân: con người hiền lành nhưng cục tính, nóng nảy.

– Ngoại hình: Tấm lưng rộng và cong, tóc tổ quạ chân đi chữ bát, hàng lông mày cháy nắng.

– Đánh vợ để giải tỏa nỗi bức xúc, vì cái nghèo.

-> Vừa là nạn nhân của cuộc sống nghèo khổ vừa là thủ phạm gây nên nỗi đau đớn về thể xác và tâm hồn cho người vợ, các con, đáng lên án.

c) Chị em thằng Phác: là những đứa trẻ đáng thương

– Chị thằng Phác: một cô gái yếu ở nhưng can đảm, ngăn em làm việc trái luân thường đạo lí.

– Thằng Phác: thương mẹ, căm thù người cha.

-> Hai chị em có cảnh đời bất hạnh khi luôn phải chứng kiến cảnh bạo hành gia đình.

d) Nghệ sĩ nhiếp ảnh

– Vốn là người lính thường vào sinh ra tử.

– Là một nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm.

– Căm ghét mọi áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Phùng hiểu rõ: trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, phải là một người nghệ sĩ biết thấu cảm những buồn vui, cay đắng ở đời.

Câu 5. Cách xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có nét gì độc đáo?

Trả lời:

Cách xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm độc đáo ở việc tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.

– Tình huống Phùng chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ chính là một sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách, phẩm chất, tính cách của con người. Mà trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một người nghệ sĩ rung động, say mê trước cái đẹp.

– Tình huống được lặp lại lần hai khiến Phùng có cách nhìn đời khác hẳn, thấy rõ những ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu thêm tính cách của người đàn bà hàng chài, chị em thằng Phác, bản chất của người đồng đội và cả chính bản thân mình.

-> Tình huống góp phần bộc lộ tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.

Câu 6. Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện có gì đáng chú ý?

Trả lời:

– Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn hết sức phong phú, độc đáo. Người kể chuyện là nhân vật Phùng, cũng chính là hóa thân của tác giả.

-> Câu chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.

– Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ tục tằn, hung bạo, lời nói của người đàn bà dịu dàng, xót xa khi nói với con, thấu trải khi nói về thân phận của mình.

Soạn phần luyện tập bài Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) trang 78 SGK ngữ văn 12 tập 2

Câu hỏi: Nhân vật nào trong truyện để lại cho anh (chị) ấn tượng sâu sắc nhất? Vì sao?

Trả lời:

a) Nhân vật Phác

– Nguyễn Minh Châu xây dựng hình tượng 1 người dám cầm dao đe dọa bố mình, hay đánh lại bố mình vì không chấp nhận được hành vi vũ phu của bố đánh mẹ, vì bênh vực người mẹ đầy lòng hy sinh vì con

– Phác – chất phác thẳng thắn là người con hiểu biết, giàu tình cảm tuy lòng cậu đầy vết xước bầm dập trong trái tim. Lòng thằng bé vẫn hết mực yêu thương mẹ và bố của mình nhưng nó cũng rất rạch ròi, cương quyết với hành động sai trái của bố khi đối xử tàn bạo với người mẹ của nó.

b) Nhân vật Phùng: Nhân vật Phung là kiểu nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: kiểu nhân vật nhận thức. Qua những sự việc xảy ra trong truyện, nhân vật dần nhận ra được điều gì đó thật sâu sắc, khác hẳn với những gì anh ta nghĩ lúc đầu.

– Phùng – một trái tim nghệ sĩ thăng hoa trước cái đẹp

– Phùng – một trái tim nghệ sĩ trước cuộc đời.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

Phương Thảo: Học vấn là chìa khóa mở cánh cửa của tương lai. Hãy cùng nhau chia sẻ những kiến thức học tập bổ ích.
Leave a Comment