Soạn bài – Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)

Soạn bài Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng) trang 140 – 141 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng), sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

CÁO BỆNH, BẢO MỌI NGƯỜI

(Cáo tật thị chúng)

MÃN GIÁC

TIỂU DẪN

Thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096) tên là Lí Trường, người làng An Cách (?). Thuở nhỏ, ông được vào hầu Thái tử Kiền Đức (tức là Lí Nhân Tông sau này), và được Thái hậu rất trọng. Khi Kiền Đức lên ngôi, ông được ban hiệu Hòai Tín, trưởng lão, lại được mời vào chùa Giáo Nguyên trong cung. Mãn Giác là tên thụy do vua ban tặng sau khi ông mất.
Kệ: thể văn Phật giáo, dùng để truyền bá giáo lí Phật pháp. Kệ được viết bằng văn vần. Nhiều bài kệ có giá trị văn chương như các bài thơ. Bài kệ của thiền sư Mãn Giác vốn không có nhan đề. Cáo tật thị chúng là nhan đề do người đời sau đặt.

VĂN BẢN

Phiên âm

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dịch nghĩa

Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăng hoa nở.
Việc đời ruổi qua trước mắt,
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, một cành mai trước sân.

Dich thơ

Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa tươi.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai.

(Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam , tập II – Văn học thế kỉ X – thế kỉ XVII, Sđd)

Hướng dẫn soạn bài – Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)

I. Bố cục:

– Bốn câu thơ đầu: Quy luật bất biến của cuộc đời.

– Hai câu thơ sau: Quan niệm nhân sinh của tác giả.

II. Hướng dẫn soạn bài Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng) chi tiết.

Giải câu 1 (Trang 141 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Hai Câu thơ đầu nói lên quy luật nào của tự nhiên? (Quy luật vận động, biến đổi? Quy luật tuần hoàn? Quy luật sinh trưởng?) Nếu đảo câu thơ 2 lên vị trí câu thơ đầu thì ý thơ khác nhau như thế nao? Đảo như thế, trong những quy luật trên, quy luật nào giữ nguyên, quy luật nào bị ảnh hưởng, vì sao?

Trả lời:

Hai câu thơ đầu nói lên quy luật hoá sinh của tự nhiên, của con người; hoa cũng như con người không bao giờ đứng yên, bất biến. Sự sống luôn là một vòng quay luân hồi.

Nếu đảo ngược vị trí câu thơ thứ hai lên đầu thì mặc dù vẫn nói lên được quy luật tuần hoá biến đổi nhưng đó sẽ là nhìn sự vận động theo quy luật xuân tới để xuân qua, hoa tươi để hoa rụng, chứ không theo quy luật sinh trưởng phát triển tự nhiên (xuân qua rồi xuân tới, hoa rụng rồi hoa tươi).

Giải câu 2 (Trang 141 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Câu thơ 3 và 4 nói lên quy luật gì trong cuộc sống của con người? Anh (chị) cảm nhận như thế nào về tâm trang tác giả qua hai câu thơ này? (Thản nhiên? Nuối tiếc? Xót xa?) Nguyên nhân dẫn đến tâm trạng ấy?

Trả lời:

Câu ba và câu bốn nói lên quy luật của đời người – quy luật: sinh, lão, bệnh, tử theo quan niệm của đạo Phật. Con người cùng với thời gian trôi thì tuổi trẻ sẽ qua đi và tuổi già ắt đến. Tuổi già đến trên đầu mà thời gian thì không ngừng trôi chảy (trước mắt việc đi mãi). Vì thế cuộc đời con người trong khoảnh khắc có khác gì ảo ảnh. Hai câu thơ có chút bâng khuâng nuối tiếc vì thời gian của vũ trụ thì vô thuỷ vô chung còn thời gian của đời người thì ngắn ngủi.

Giải câu 3 (Trang 141 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Hai câu cuối có phải là thơ tả thiên nhiên không? Câu thơ đầu khẳng định “Xuân qua, trăm hoa rụng” vậy mà hai câu cuối lại nói xuân tàn vẫn nở cành mai. Như thế có mâu thuẫn không? Vì sao? Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng cành mai trong câu thơ cuối?

Trả lời:

Trong hai câu thơ cuối, tác giả mượn việc miêu tả thiên nhiên mà nói đến một quan niệm triết lí trong Phật giáo ; khi con người đã giác ngộ đạo (hiểu được chân lí và quy luật) thì có sức mạnh lớn lao, vượt lên trên cả lẽ sinh diệt thông thường. Thiền sư đắc đạo trở về với bản thể vĩnh hằng, không sinh, không diệt như nhành mai kia cứ tươi bất kể xuân tàn. Theo cách giải thích này nội dung ý tức của hai câu thơ cuối không hề có chút gì mâu thuẫn với nhau.

Trong quan niệm của người xưa, hoa mai là loài hoa chịu được cái giá rét của mùa đông. Trong sương tuyết lạnh, mai vẫn nở hoa, báo hiệu cho mùa xuân đến. Hoa mai tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, thử thách, gian nan. Hình tượng hoa mai vì thế tượng trưng cho sức sống bất diệt của con người.

Giải câu 4 (Trang 141 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Qua bài kể, anh (chị) hãy làm sáng tỏ lòng yêu đời và cái nhin lạc quan của tác giả
(Cần xâu chuỗi phần trả lời ở những câu hỏi trên, chú ý:

– Cách mở đầu và kết thúc bài thơ.

– Những từ ngữ làm nên tính chất khẳng định ở hai câu thơ kết

– Tâm trạng tác giả trong hai câu 3 và 4 và trong hai câu thơ kết có gì khác nhau?)

Trả lời:

Bài thơ thể hiện rất rõ lòng yêu đời với cái nhìn lạc quan của nhà thơ. Niềm yêu đời, niềm lạc quan tươi sáng ấy được thể hiện qua cách nói khẳng định, qua các hình tượng thiên nhiên mang vẻ đẹp tươi tắn, gợi lên sự cảm nhận về sự sống sinh sôi và bất diệt. Quy luật của cuộc đời là sinh – tử – sinh nhưng bài thơ mở đầu bằng “xuân tàn” và kết thúc bằng “một nhành mai” tươi. Đó là một cách nhìn lạc quan.

Lời kệ được viết khi nhà thơ đau bệnh nhưng nó vẫn toát lên sự bình thản yêu đời, xuất phát từ một thể trạng tinh thần khoẻ mạnh, đầy bản lĩnh, đạt đến độ tự tại ung dung.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)

Câu 1. Hai Câu thơ đầu nói lên quy luật nào của tự nhiên? (Quy luật vận động, biến đổi? Quy luật tuần hoàn? Quy luật sinh trưởng?) Nếu đảo câu thơ 2 lên vị trí câu thơ đầu thì ý thơ khác nhau như thế nao? Đảo như thế, trong những quy luật trên, quy luật nào giữ nguyên, quy luật nào bị ảnh hưởng, vì sao?

Trả lời:

– Hai câu thơ đầu nói lên quy luật vận động, biến đổi, quy luật tuần hoàn của tự nhiên.

– Nếu đảo câu thơ thứ 2 lên trước sẽ làm mất đi ý nghĩa lạc quan của hai câu thơ bởi hai câu thơ kết thúc với hình ảnh của sự lụi tàn “bách hoa lạc” chứ không phải là hình ảnh của sự sống “bách hoa khai” như ban đầu.

– Nếu đảo như thế, quy luật vận động biến đổi được giữ nguyên bởi hai trạng thái đối nghịch của sự vật vẫn được diễn đạt đầy đủ, quy luật tuần hoàn bị ảnh hưởng.

Câu 2. Câu thơ 3 và 4 nói lên quy luật gì trong cuộc sống của con người? Anh (chị) cảm nhận như thế nào về tâm trang tác giả qua hai câu thơ này? (Thản nhiên? Nuối tiếc? Xót xa?) Nguyên nhân dẫn đến tâm trạng ấy?

Trả lời:

– Hai câu thơ nói lên quy luật vận động tự nhiên của đời người: thời gian trôi mãi không ngừng, vì thế tuổi trẻ sẽ qua đi và tuổi già sẽ đến.

– Tác giả bộc lộ tâm trạng thản nhiên, tự tại bởi tác giả là người thấu đạt quy luật của cuộc sống nên không cưỡng cầu mà thuận theo nó.

Câu 3. Hau câu cuối có phải là thơ tả thiên nhiên không? Câu thơ đầu khẳng định “Xuân qua, trăm hoa rụng” vậy mà hai câu cuối lại nói xuân tàn vẫn nở cành mai. Như thế có mâu thuẫn không? Vì sao? Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng cành mai trong câu thơ cuối?

Trả lời:

– Hai câu thơ cuối không thuần túy là thơ tả thiên nhiên mà nó còn khái quát một triết lý nhân sinh sâu sắc.

– Câu thơ đầu tiên và hai câu thơ cuối không hề mâu thuẫn với nhau mà nó la hai mặt của một vấn đề, là hai giai đoạn khác nhau của quy luật cuộc sống, hai câu thơ cuối là sự tiếp nối của câu thơ đầu. Sau khi hoa lụi tàn hết thì sự sống sẽ tiếp tục nảy nở, những bông hoa mới sẽ nở rộ.

– Hình tượng nhành mai trong câu thơ cuối là điểm sáng cho cả bài thơ, nó là sự kết tinh tinh thần lạc quan, phong thái tự tai, ung dung của tác giả trước sự biến thiên của cuộc sống. Hình ảnh nhành mai ấy khơi gợi trong lòng người niềm tin vào cuộc sống đang hiện hữu, niềm tin vào sự sống bất diệt trong quy luật luân hồi, tuần hoàn.

Câu 4. Qua bài kể, anh (chị) hãy làm sáng tỏ lòng yêu đời và cái nhin lạc quan của tác giả
(Cần xâu chuỗi phần trả lời ở những câu hỏi trên, chú ý:

– Cách mở đầu và kết thúc bài thơ.

– Những từ ngữ làm nên tính chất khẳng định ở hai câu thơ kết

– Tâm trạng tác giả trong hai câu 3 và 4 và trong hai câu thơ kết có gì khác nhau?)

Trả lời:

– Tác giả đi từ quy luật tự nhiên của cuộc đời để khẳng định những điều mà con người không thể cưỡng lại, đó chính là sự chảy trôi, sự rụng rơi của vạn vật. Tuy nhiên tác giả lại dùng nhận thức sâu sắc ấy để khẳng định niềm tin vào sức sống bền bỉ thông qua hình ảnh nhành mai. Nhận thức của tác giả về quy luật biến đổi, tuần hoàn nhằm mang lại cho người đọc cảm giác bình thản, ung dung trước mọi biến cố của đời sống.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status