Soạn bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tĩnh dạ tứ) trang 123 – 125 SGK ngữ văn lớp 7 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh, sau đây là hướng dẫn soạn bài và giải bài tập đầy đủ và chi tiết nhất theo sách giáo khoa.
CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH(*)
(Tĩnh dạ tứ)
Phiên âm
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Lí Bạch)
Dịch nghĩa
Ánh trăng sáng đầu giường,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng,
Cúi đầu nhớ quê cũ.
(Tĩnh: im lặng, yên tĩnh, dạ: đêm, tứ: ý tứ, cảm nghĩ. Sàng: giường, tiền: trước, minh: sáng, nguyệt: trăng, quang: ánh sáng. Nghi: ngờ, thị: là, địa: đất, thượng: trên, sương: sương. Cử: cất lên, nâng lên, đầu: đầu, vọng: trông xa. Đê: cúi xuống, tư: lo nghĩ, nhớ, cố: cũ, hương: làng, quê hương.)
Dịch thơ
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(*) Có người nói thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Hình ảnh trăng trong thơ Lí Bạch hết sức đa dạng, ý nghĩa vô cùng phong phú. Chủ đề của bài thơ rất quen thuộc: “Vọng nguyệt hoài hương” (Trông trăng nhớ quê), cách thể hiện rất giản dị mà độc đáo. Thuở nhỏ, ông thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng. Từ 25 tuổi, Lí Bạch đã xa quê và xa mãi. Bởi vậy, cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê nhà. Bài thơ được viết theo hình thức cổ thể, một thể thơ trong đó mỗi câu thường có 5 hoặc 7 chữ, song không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm luật và đối ràng buộc.
Hướng dẫn soạn bài – Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tĩnh dạ tứ) chi tiết
Giải câu 1 (Trang 124 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Có người cho rằng trong bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu là thuần túy tả cảnh, hai câu cuối là thuần túy tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
(Gợi ý:
– Phải chăng trong hai câu đầu hoàn toàn không có suy tư, cảm nghĩ của con người?
– Và phải chăng hai câu cuối là tả tình thuần túy?
– Từ sự phân tích trên, rút ra kết luận về mối quan hệ giữa cảnh và tình trong bài thơ này).
Trả lời:
– Ý kiến cho rằng hai câu đầu là thuần túy tả cảnh, hai câu sau thuần túy tả tình là không đúng. Chính xác phải là hai câu đầu nghiêng về tả cảnh, hai câu sau nghiêng về tả tình.
– Vì: Hai câu đầu:
+ Vị trí miêu tả ánh trăng của nhà thơ ở “sàng tiền” (đầu giường), như vậy thể hiện sự thao thức, trằn trọc không ngủ được của nhà thơ có thể vì trăng đẹp quá, Lí Bạch vốn rất yêu trăng và cả vì nỗi nhớ nhà của kẻ xa quê.
+ Câu thứ 2 tả ánh trăng ngập tràn không gian nhưng ta vẫn cảm nhận được sự thay đổi vị trí ngắm cảnh của thi nhân, từ sàng tiền đến song tiền (từ đầu giường đến cửa sổ) mới có thể thấy được mặt đất và có cảm giác “ngỡ phủ sương” -> Tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến.
=> Như vậy, ở hai câu đầu: cảnh đã chứa đựng tâm tình.
– Hai câu sau:
+ Hai câu sau tình dâng trào cuồn cuộn để đọng lại thành nỗi sầu nhớ thương qua cụm từ: nhớ cố hương.
+ Cảnh được thể hiện như thế nào? Ngẩng đầu nhìn trăng sáng cả bầu trời cao lồng lộng và một vầng trăng sáng trong vằng vặc thanh tĩnh hiện ea trước mắt người đọc. Một đêm trăng thật đẹp song cũng thật cô đơn.
+ Mối quan hệ giữa cảnh và tình: Cảnh và tình trong bài thơ có mối liên hệ nhân quả, sự tác động qua lại. Vì trăng đẹp quá mà nhớ quê trằn trọc thao thức không ngủ được. Càng thao thức không ngủ càng thấy trăng đẹp hơn.
=> Cảnh – tình khăng khít gắn bó không thể tách bạch.
Như thế, từ đây có thể rút ra kết luận: trong bài thơ này (và cả một số bài thơ Đường khác nữa), hai câu đầu (hoặc nửa trên) thường thiên về tả cảnh (trong cảnh có tình), ngược lại hai câu sau thiên về tả tình (trong tình có cảnh).
Giải câu 2 (Trang 124 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Tuy không phải là một bài thơ Đường luật song Tĩnh dạ tứ cũng sử dụng phép đối.
a) So sánh về mặt từ loại của các chữ tương ứng ở hai câu cuối để bước đầu hiểu thế nào là phép đối.
b) Phân tích tác dụng của phép đối ấy trong việc biểu hiện tình cảm quê hương của tác giả.
Trả lời:
Hai câu cuối: Hai câu thơ giống nhau
– Về mặt từ loại
– Về cấu trúc ngữ pháp
– Số lượng chữ
Động từ | Danh từ | Động từ | Tính từ | Danh từ | |
---|---|---|---|---|---|
Câu 3 | cử | đầu | vọng | minh | nguyệt |
Câu 4 | đê | đầu | tư | cố | hương |
Tác dụng của phép đối: vừa diễn tả cử chỉ, vừa thể hiện tâm trạng của nhà thơ một cách hài hòa đậm nét.
Giải câu 3 (Trang 124 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Dựa vào bốn động từ nghi (ngỡ là), cử (ngẩng), đê (cúi), và tư (nhớ) để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.
Trả lời:
Bài thơ ngắn chỉ gồm hai mươi chữ mà có tới 5 động từ: nghi (ngỡ), cử (ngẩng), vọng (nhìn), đê (cúi) và tư (nhớ). Thực ra nếu theo dõi thứ tự của bốn động từ này, chúng ta có thể nhận ra mạch cảm xúc của bài thơ. Bốn động từ đều bị lược đi chủ thể hành động nhưng có thể dễ dàng khẳng định, chủ thể trữ tình, chủ thể hành động ở đây chính là tác giả. Năm động từ tạo thành một mạch cảm xúc vận động rất nhanh, có thể hiện thực hoá lại bằng văn xuôi như sau: nhân vật trữ tình (nhà thơ) tỉnh dậy (hoặc đang mơ màng ngủ) thì nhận ra ánh sáng đang lọt qua khe cửa, ngỡ ngàng vì không biết là sương hay là trăng, nhà thơ ngẩng lên như là một hành động để mà xác nhận. Nhưng rồi chính cái khoảnh khắc ngẩng đầu kia lại gợi về trong lòng tác giả nỗi niềm của người xa xứ. Hành động cúi đầu như là đang cố nén đi cái cảm xúc mãnh liệt đang trào dâng.
Tĩnh dạ tứ với những từ ngữ giản dị mà tinh luyện. Bài thơ đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh.
Soạn phần luyện tập bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 125 SGK ngữ văn 7 tập 1)
Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu thơ như sau:
“Đêm thu trăng sáng như gương,
Lí Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà”.
Dựa vào những điều đã phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu thơ theo nguyên thể hoặc theo thể lục bát.
Trả lời:
Nhận xét 2 câu thơ dịch:
“Đêm thu trăng sáng như gương
Lí Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà”
Ta thấy, 2 câu thơ ngắn gọn nhưng chỉ nêu được nội dung là thấy trăng sáng, Lí Bạch ngắm trăng và nhớ quê nhà nhưng không thấy được nét đặc sắc nghệ thuật ở trong 2 câu thơ này. Ở bản dịch cũ có động từ “ngỡ” thể hiện sự bắt gặp một cách tự nhiên, ngỡ ngàng và trăng được so sánh với “sương” còn ở bản dịch mới thì hoàn toàn bị mất đi. Để sự bắt gặp ngẫu nhiên đó, tác giả mới dâng trào cảm xúc và càng nhớ quê nhà nhiều hơn.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
I. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1. Có người cho rằng trong bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu là thuần túy tả cảnh, hai câu cuối là thuần túy tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
(Gợi ý:
– Phải chăng trong hai câu đầu hoàn toàn không có suy tư, cảm nghĩ của con người?
– Và phải chăng hai câu cuối là tả tình thuần túy?
– Từ sự phân tích trên, rút ra kết luận về mối quan hệ giữa cảnh và tình trong bài thơ này).
Trả lời:
Có người cho rằng trong bài thơ này hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau tả tình. Nghĩ như vậy là do theo quán tính xúc cảnh sinh tình: vọng nguyệt hoài hương (ngắm trăng nhớ quê) quen thuộc xưa nay. Thật ra, đọc kĩ hai câu đầu ta thấy không hoàn toàn đơn thuần chỉ có cảnh:
“Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương.”
(Ánh trăng sáng đầu giường
Ngỡ là sương mặt đất)
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Chữ sàng (giường) gợi cho người dọc nghĩ rằng nhà thơ đang nằm trên giường mà trằn trọc không ngủ được hoặc đã ngủ rồi tỉnh giấc không ngủ lại được. Trong tình huống ấy, chữ “nghi” (ngỡ là) sử dụng thật xác hợp tự nhiên. Chữ sương gợi màu trắng và cảm giác lạnh. Hai câu thơ trên không những chỉ ràn rụa ánh trăng mà chứa chan ý vị trữ tình của sự vật trong cảnh.
Hai câu thơ sau:
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
(Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê hương)
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
Chủ thể trữ tình đã hiện rõ nêu bật lên tâm trạng của nhà thơ là xúc động tình quê.
Tuy nhiên với bài thơ này, nói xúc cảnh sinh tình không đủ. Tình ở đây là nhân mà cũng là quả. Vì sao? Vì nhớ quê, trằn trọc thao thức không ngủ được nhìn trăng. Nhìn trăng lại càng nhớ quê nhiều hơn.
Câu 2. Tuy không phải là một bài thơ Đường luật song Tĩnh dạ tứ cũng sử dụng phép đối.
a) So sánh về mặt từ loại của các chữ tương ứng ở hai câu cuối để bước đầu hiểu thế nào là phép đối.
b) Phân tích tác dụng của phép đối ấy trong việc biểu hiện tình cảm quê hương của tác giả.
Trả lời:
Không phải là một bài thơ Đường luật. Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch là một bài cổ tuyệt (tứ tuyệt cổ phong) nhưng cũng sử dụng phép đối”.
“Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.”
Ở đây “cử đầu” đối với “đê đầu” và “vọng minh nguyệt” đối với “tư cố hương”. Đúng là số lượng chữ của các bộ phận tham gia đối bằng nhau, cấu trúc ngữ pháp của các bộ phận tham gia đối giống nhau và từ loại của các chữ tương ứng ở hai vế giống nhau, cần chú ý chỉ trong thơ cổ thể, “đầu” mới đối được với “đầu” (đối trùng thanh), còn trong thơ Đường luật thì không thể đối như thế được.
Tác dụng cửa phép đối ở đây nhằm biểu hiện cụ thể và sinh động tình cảm quê hương.
Trước khi “ngẩng đầu” tác giả đã “cúi đầu” vì có “cúi đầu” mới ngỡ ánh trăng là sương phủ mặt đất. Từ chỗ chỉ thấy ánh trăng ấy, ông đã “ngẩng đầu” để nhìn thấy cả bản thân vầng trăng. Và khi thấy vầng trăng cũng như mình cô độc lạnh lẽo, lập tức tác giả lại “cúi đầu” để suy ngẫm về quê hương. Các cử động “cúi đầu, ngẩng đầu, cúi đầu” liên tục ấy thể hiện sinh động cụ thể hoạt động của tư duy và cảm xúc nói rõ hơn là của tình cảm quê hương.
Câu 3. Dựa vào bốn động từ nghi (ngỡ là), cử (ngẩng), đê (cúi), và tư (nhớ) để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.
Trả lời:
Chứng minh tính chất chặt chẽ của bài thơ:
Hai dòng đầu diễn đạt một ý: Ngỡ ánh trăng rọi đầu giường là sương phủ trên mặt đất. Động từ nghi (ngỡ) đã liên kết ý của hai dòng thơ.
Ngoài nghi, còn các động từ cử, vọng, đê, tư đều có vai trò hết sức quan trọng trong việc gắn chặt các ý tưởng trong bài thơ này. Các chủ ngữ ở đây đều bị lược bỏ. Tuy vậy, có thể khẳng định chỉ có một chủ ngữ duy nhất: từ xưng hô của chủ thể trữ tình.
Điều này đã tạo nên tính thống nhất liền mạch của cảm xúc trong bài thơ.
II. LUYỆN TẬP
Bài 1. Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu thơ như sau:
“Đêm thu trăng sáng như gương,
Lí Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà”.
Dựa vào những điều đã phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu thơ theo nguyên thể hoặc theo thể lục bát.
Trả lời:
Hai câu thơ trên tuy đã nêu được đầy đủ các ý và tình cảm có trong bài thơ, song vẫn còn có một vài điểm khác, đó là:
- Lí Bạch không so sánh trăng với sương và trên thực tế, sương chỉ xuất hiện trong cảm giác của nhà thơ.
- Chủ thể trữ tình của bài thơ không được nhắc đến (nó được ẩn đi và chỉ xuất hiện trong sự suy luận của chúng ta).
- Bản dịch đã không chuyển tải được năm động từ (nghi, cử, vọng, đê, tư) đã có.
Thử dịch thành thơ theo thể thơ lục bát hoặc cổ thể:
Trăng sáng rọi đầu giường
Mặt đất như sương phủ
Nhìn vầng trăng vằng vặc
Da diết nhớ quê hương.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment