Soạn bài Bến quê (trích) trang 100 – 109 SGK ngữ văn lớp 9 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Bến quê (trích) – Nguyễn Minh Châu, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
BẾN QUÊ
(Trích)
Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng(1) đã thưa thớt – cái giống hoa ngay khi mới nở, màu sắc đã nhợt nhạt. Hẳn có lẽ vì đã sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Ừ cũng chả phải, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ, chính vì thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu(2) rồi, cái nóng hầm hập ở trong phòng cùng cái thứ ánh sáng loa loá vừa nhìn đã thấy chói cả mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết đã rút đi đâu từ bao giờ.
Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.
Nhĩ khó nhọc nâng một cánh tay lên khẽ đẩy cái bát miến trên tay Liên ra. Anh ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng Tuấn cầm chiếc khăn bông tẩm nước ấm khẽ lau miệng, cằm và hai bên má cho mình.
Anh không dám nhìn vào mặt con. Trong khi lại nghiêng mặt ra ngoài cửa sổ, anh ngạc nhiên nhận thấy những cánh hoa bằng lăng càng thẫm màu hơn – một màu tím thẫm như bóng tối…
Chờ khi đứa con trai đã bưng thau nước xuống nhà dưới, anh hỏi Liên:
– Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không?
Liên giả vờ không nghe câu chồng vừa hỏi. Trước mặt chị hiện lên một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ.
– Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?
Liên vẫn không đáp và biết chồng đang nghĩ gì. Chị đưa những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai chồng:
– Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được.
Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên đang mặc tấm áo vá.
– Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh.
– Có hề sao đâu… Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này…
Ngừng một lát, Liên nói tiếp:
– Anh cứ tập tành và uống thuốc cho đều. Sang tháng mười, nhất định anh đi lại được.
– Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh sẽ đi thành phố Hồ Chí Minh một chuyến.
Liên biết chồng nói đùa:
– Đi Thành phố Hồ Chí Minh thì chắc chẳng được nhưng anh có thể chống gậy đi trong nhà. Hoặc tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một bậc… hoặc giá anh lại khỏe hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc.
– Ừ, tưởng gì… nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang…
Liên đặt bàn tay vào sau phiến lưng đã có nhiều mảng da thịt vừa chai cứng vừa lở loét của Nhĩ:
– Em đỡ anh nằm xuống nhé?
– Khoan. Em cần ra chợ hay đi đâu thì cứ đi. Khi nào mỏi anh sẽ gọi con.
Một lát sau Nhĩ còn nghe tiếng vợ đi lại dọn dẹp và dặn dò con điều gì đó. Liên hãm nước thuốc ở cái siêu đất ra chiếc bát chiết yêu(3), Nhĩ đoán thế, nghe tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào nhà. Rồi Liên xuống thang, vẫn cái tiếng bước chân rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm.
Chờ Liên xuống tầng dưới rồi Nhĩ mới lên tiếng:
– Tuấn, Tuấn à!
Anh con trai đánh trần ngồi tựa vào bức tường đầu cầu thang, tay nhặt rau muống, mắt cúi xuống một cuốn sách truyện dịch. Nghe bố gọi, Tuấn chạy vào trong tay vẫn cầm quyển sách dày cộm gập đôi:
– Bố mỏi rồi. Con đỡ bố nằm xuống nhé!
– Chưa… – đến lúc này Nhĩ mới ngắm kĩ đứa con trai. Nó là đứa thứ hai, gần một năm nay vắng nhà, đi học tận trong một thành phố phía Nam và vừa mới trở về đêm qua. Anh thấy càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giống anh.
Người cha sắp từ giã cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng. Anh ngước nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa rồi quay vào bất chợt hỏi:
– Đã bao giờ Tuấn… sang bên kia chưa hả?
– Sang đâu hả bố?
– Bên kia sông ấy!
Anh con đáp bằng vẻ hờ hững:
– Chưa…
Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời mình:
– Bây giờ con sang bên kia sông hộ bố…
– Để làm gì ạ?
– Chẳng để làm gì cả. – Nhĩ có vẻ ngượng nghịu vì cái điều anh sắp nói ra quá ư kì quặc – Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đó một lát, rồi về…
Anh con trai cười:
– Bố đang sai con làm cái việc gì lạ thế?
– Hay là thế này nhé. – Nhĩ vẫn không hề thay đổi ý kiến – Con cầm đi mấy đồng bạc xem bên ấy có hàng quán người ta bán bánh trái gì, con mua cho bố.
Anh con trai miễn cưỡng mặc quần áo, đội chiếc mũ nan rộng vành đề phòng đến trưa có thể nắng to – theo lời yêu cầu khẩn khoản của Nhĩ – giắt vào người mấy đồng bạc.
Vừa nghe tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô(4) xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng như mình vừa bay được một nửa vòng trái đất – trong một chuyến đi công tác ở một nước bên Mĩ La – tinh hai năm trước đây. Anh mệt lử. Và đau nhức. Ngồi lại nghỉ một chặng và chỉ muốn có ai đỡ cho để nằm xuống.
Nghe tiếng chân giậm thình thịch đều đặn ở bên kia tường. Nhĩ cúi xuống thở hổn hển để lấy lại sức rồi cất tiếng gọi yếu ớt: “Huệ ơi!”
Từ phòng bên kia một cô bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu thu một đoạn dây sau lưng chạy sang. Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này. Nó lễ phép hỏi Nhĩ: “bác cần nằm xuống phải không ạ?”. Nhĩ đáp trong hơi thở gấp gáp: “Ừ, ừ… chào cháu!”. Cô bé nhảy lên phản, vừa mó vào người Nhĩ đã vội vã nhảy xuống, nó chạy ra đầu cầu thang cầm đoạn dây khẽ phất xuống bên dưới và gọi toáng lên:
– Vân ơi, Tam ơi, Hùng ơi!
Một lát sau không phải chỉ có ba đứa mà cả một lũ trẻ ở tầng dưới lần lượt chạy lên:
– Chúng cháu chào bác ạ!
– Chào bác Nhĩ ạ!
Vây bọc bởi đám trẻ con đứng lố nhố chung quanh, Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh của mình thật buồn cười, y như một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chúng chăm sóc và chơi với.
Cả bọn trẻ xúm vào, và rất nương nhẹ, giúp anh đi nốt nửa vòng trái đất – từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm chục phân.
Chúng giúp anh đặt một bàn tay lên bậu cửa sổ, kê cao thêm dưới mông anh bằng cả một chiếc chăn gập lại rồi sau đó mới bê cái chồng gối đặt sau lưng.
Chẳng biết thế nào mà sáng nay tất cả những ngón tay của chúng đều chua lòm mùi nước dưa, nhưng không sao, vì thế anh càng yêu lũ trẻ trong ngôi nhà mình.
Ngay lúc ấy, cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trước tiên khi được ngồi sát ngay sau khuôn cửa sổ là một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bờ ở khúc sông Hồng này vừa mới bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước.
Sát bên bờ của dải đất lở dốc đứng bên này, một đám đông khách đợi đò đứng nhìn sang. Người đi bộ, người dắt xe đạp. Một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy. Nhĩ nhìn mãi đám khách nhưng vẫn không tìm thấy cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo đâu cả.
Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường. Thằng bé vẫn cắp cuốn sách bên nách đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế(5) trên hè phố. Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được. Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày, Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ(6), và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết.
Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh Liên vẫn đang còn mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ(7). So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành. Tuy vậy, cũng như cái bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu(8), tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Con đò đã sang quá nửa sông, ngồi đây Nhĩ đã có thể nhìn thấy rõ từng mảnh vá trên lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ.
Giữa lúc Nhĩ đang nhìn thấy trong tưởng tượng chính mình trong tấm áo màu xanh trứng sáo và chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa – chợt nghe sau lưng có tiếng ho. Nhĩ quay lại.
Ông cụ giáo Khuyến tựa trên chiếc gậy song đang đứng bên phản. Đã thành lệ, buổi sáng nào ông cụ già hàng xóm đi xếp hàng mua báo về cũng ghé vào hỏi thăm sức khoẻ của Nhĩ.
– Cụ ạ – Nhĩ bắt đầu ra hiệu về phía đầu tấm nệm nằm của mình – cháu Huệ có gửi lại chìa khoá cho cụ.
– Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khỏe ra nhỉ?
– Dạ, con cũng thấy như hôm qua…
Chợt ông cụ già hàng xóm hốt hoảng quá! Ông cụ giáo Khuyến chợt nhận thấy mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phái ngoài cửa sổ khoát khoát(9) y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.
Ngay lúc bấy giờ, chiếc đò ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên sông Hồng vừa chạm mũi vào cái bờ đất lở dốc đứng bên phía này.
(Nguyễn Minh Châu(*), Tuyển tập Truyện ngắn,
NXB Văn học, Hà Nội, 1999)
Chú thích:
(*) Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), quê ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, gia nhập quân đội năm 1950, trong kháng chiến chống Pháp và sau đó trở thành nhà văn. Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ. Sau năm 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu – đặc biệt là các truyện ngắn – đã thể hiện những tìm tòi quan trọng về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần đổi mới văn học nước nhà từ những năm 80 của thế kỉ XX đến nay. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985. Văn bản đưa vào sách giáo khoa, lược bỏ một đoạn ở phần đầu truyện.
(1) Bằng lăng: cây to, tán dày, lá hình bầu dục, hoa mọc thành cụm ở đầu cành, màu tím hồng, nở vào mùa hè. Bằng lăng phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
(2) Lập thu: theo lịch cổ truyền Trung Quốc, mỗi năm có 24 tiết. Tiết lập thu là ngày bắt đầu mùa thu, thường vào đầu tháng tám dương lịch.
(3) Bát chiết yêu: bát to, loe miệng, phần từ giữa đến đáy thắt lại.
(4) Dép sa bô: dép đế dày, không có quai hậu.
(5) Chơi phá cờ thế: một lối chơi cờ tướng, người chơi tìm cách phá những thế cờ được bày sẵn.
(6) Tiêu sơ: (cảnh vật tự nhiên) đơn sơ, tiêu điều và hoang vắng.
(7) Khăn mỏ quạ: khăn chít đầu của phụ nữ, gấp chéo thành góc nhọn như cái mỏ quạ ở trước trán.
(8) Bôn tẩu: ngược xuôi đây đó để lo liệu công việc (bôn: chạy, tẩu: đi).
(9) Khoát khoát: giơ tay đưa mạnh về một hướng để ra hiệu.
Hướng dẫn soạn bài – Bến quê
I. Tóm tắt:
Nhĩ là người đàn ông từng đi nhiều vùng đất nhưng cuối đời lại bị cột chặt vào giường bệnh. Nhìn sang bãi bồi bên kia sông nơi bến quê quen thuộc, anh mới nhận ra vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê mình. Cũng khi trên giường bệnh, anh mới cảm nhận được nỗi vất vả, tình thương, đức hi sinh của vợ mình. Nhĩ khát khao đặt chân lên bãi bờ bên kia sông nhưng bệnh tật không cho phép, anh nhờ đứa con trai mình. Đứa con không hiểu ước muốn của cha, nó miễn cưỡng đi và bị hút vào trò chơi hấp dẫn trên đường làm lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Nhĩ chiêm nghiệm được cái quy luật đầy nghịch lí “con người ta khó tránh được cái vòng vèo, chùng chình, phải dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống”.
II. Bố cục:
– Phần 1 (từ đầu đến “trên những bậc gỗ mòn lõm”): Tình cảnh hiện tại của Nhĩ thể hiện qua cuộc trò chuyện giữa Nhĩ và Liên.
– Phần 2 (tiếp theo đến “lá buồm cánh dơi in bật trên một vùng nước đỏ”): Nhĩ nhờ con trai thứ hai là Tuấn thay mình sang bên kia sông và hành trình sang bên kia sông của Tuấn.
– Phần 3 (đoạn còn lại): Chuyến ghé thăm của cụ giáo Khuyến và hành động khoát tay của Nhĩ.
II. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Bến quê – Nguyễn Minh Châu
Giải câu 1 (Trang 107 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Nhân vật Nhĩ trong truyện ở vào hoàn cảnh như thế nào? Xây dựng tình huống ấy, tác giả nhằm thể hiện điều gì?
Trả lời:
Nhân vật Nhĩ ở trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, anh là người đã từng đi khắp các xó xỉnh trên thế giới nhưng đến cuối cuộc đời lại không thể đi lại được vì bệnh tật. Trong lúc này, anh mới nhận ra vẻ đẹp bình dị của bên kia bờ sông nơi anh sinh sống. Nghịch lí là một người từng đi khắp các nơi trên thế giới nhưng lại chưa từng đặt chân sang bên kia bờ sông quê hương. Và càng đặc biệt hơn khi mà giờ anh sẽ không bao giờ có cơ hội làm điều đó nữa vì bệnh tật.
Đặt nhân vật vào tình huống ấy, tác giả Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm tới bạn đọc: cuộc sống này có những điều vượt xa khỏi ước muốn của con người, đó là những điều bất ngờ mà bản thân con người không thể ngờ tới.
Giải câu 2 (Trang 107 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ở cảnh ngộ bị buộc chặt vào giường bệnh, Nhĩ đã nhìn thấy những gì qua khung cửa sổ và anh khao khát điều gì? Vì sao Nhĩ lại có niềm khao khát ấy và điều đó có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Những ngày cuối cùng của cuộc đời, khi Nhĩ nằm trên giường bệnh, anh nhận ra được vẻ đẹp mà anh chưa bao giờ để ý tới:
– Đó là vẻ đẹp của những đóa bằng lăng tím cuối mùa, vẻ đẹp đỏ nặng phù sa của con sông Hồng quê anh, vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông – nơi anh chưa từng đặt chân qua.
⇒ Đó là vẻ đẹp tưởng chừng rất đỗi quen thuộc với anh nhưng lại vô cùng xa lạ vì anh chưa từng nhìn tới nó.
⇒ Anh khao khát được một lần đặt chân sang bãi bồi bên kia sông => đó là sự thức tỉnh của một con người đã bỏ lỡ những giá trị đích thực của cuộc sống – những điều bình dị, nhỏ bé nhất. => Sự thức tỉnh đầy hối hận và xót xa của nhân vật Nhĩ.
Giải câu 3 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Vì sao có thể nói ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Minh Châu ở thiên truyện này rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo? Phân tích sự miêu tả tâm lí nhân vật Nhĩ để khẳng định nhận xét ấy.
Trả lời:
Trong truyện ngắn Bến quê, ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Minh Châu rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo thông qua cách lựa chọn và xử lý tình huống. Nguyễn Minh Châu đã khai thác tình huống: nhân vật được đặt trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy theo hướng để cho nhân vật tự suy ngẫm, tự trải nghiệm về cuộc đời của mình với những suy nghĩ sâu sắc.
Những suy nghĩ của nhân vật Nhĩ trong những giây phút cuối đời hết sức cụ thể như người vợ, đứa con và về chính cuộc đời mình. Trong con mắt của một người sắp từ giã cõi đời, cảnh vật trước mắt bỗng đẹp đến kỳ lạ: người vợ gầy gò nhưng trái tim chan chứa yêu thương, khung cảnh đẹp đẽ của tự nhiên quê hương anh, sự ngoan ngoãn, lớn khôn của thằng con anh, tình người, tình hàng xóm… Đó chính là tình yêu đối với cuộc sống đã được trải nghiệm qua một cuộc đời nhiều thăng trầm, đang trải qua những giây phút hiểm nghèo.
Giải câu 4 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả chân dung và cử chỉ của nhân vật Nhĩ với vẻ rất khác thường. Hãy giải thích ý nghĩa của các chi tiết ấy.
Trả lời:
Hành động khác thường của Nhĩ ở cuối truyện: “Anh cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”.
⇒ Có thể hiểu là anh đang thúc giục cậu con trai – đang trong đám chơi cờ phá, hãy mau tới bến đò kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày,
⇒ Đó chính là ý muốn thức tỉnh mọi người phải biết vượt qua những cái “vòng vèo, chùng chình” để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững trong cuộc sống.
Giải câu 5 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Nhiều hình ảnh, chi tiết trong truyện này mang tính biểu tượng. Hãy tìm một số hình ảnh, chi tiết như vậy và nêu ý nghĩa biểu tượng của chúng. (Gợi ý: hình ảnh bãi bồi bên kia sông, bờ sông bên này bị sụt lở, chi tiết anh con trai sa vào đám chơi phá cờ thế…)
Trả lời:
– Bãi bồi, bến sông: vẻ đẹp của đời sống bình dị, gần gũi, thân thuộc của quê hương, xứ sở.
– Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này đổ ụp vào giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng… gợi ra ý nghĩa sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng.
– Đứa con trai ham chơi gợi suy nghĩ về sự chùng chình, vòng vèo trong cuộc sống của con người.
– Hành động, cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện: ý muốn thức tỉnh mọi người phải biết vượt qua những cái “vòng vèo, chùng chình” để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững trong cuộc sống.
Giải câu 6 (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Truyện ngắn này chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm của nhà văn về con người và cuộc đời. Tìm trong văn bản đoạn văn thể hiện tập trung chủ đề của truyện và nêu cảm nhận của em về đoạn văn.
Trả lời:
Đoạn văn chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm của tác giả về con người, cuộc đời: “Thì ra thằng ocn trai của anh chỉ mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường… lời lẽ không bao giờ giải thích hết.” (SGK Ngữ văn 9 – tập 2 – trang 105) Đây là đoạn văn diễn tả những suy nghĩ của Nhĩ khi thấy đứa con ham chơi, quên cả việc bố nhờ.
⇒ Qua đó, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm thông điệp: Trong cuộc sống, con người thường khó tránh khỏi những điều “vòng vèo, chùng chình”. Điều con người cần làm là phải thức tỉnh những giá trị và vẻ đẹp đích thực của cuộc sống ở những cái giản dị, gần gũi, bình thường mà bền vững.
Soạn phần luyện tập bài Bến quê (trích) – Nguyễn Minh Châu
Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 108 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Đọc đoạn đầu của truyện và nhận xét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của tác giả trong đoạn văn ấy.
Trả lời:
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của tác giả trong đoạn đầu có những nét đặc sắc:
+ Hình ảnh thiên nhiên giàu màu sắc biểu tượng:
-> Những bông hoa bằng lăng cuối cùng trở nên đậm sắc hơn: những bông hoa ấy như là chút hơi thở, chút gắng gượng cuối cùng trước khi lụi tàn, nó cũng như cảnh ngộ của Nhĩ, đang trong ở trong khoảnh khắc cuối cùng của đời người, vì vậy cố gắng dành hết mọi sức lực để thực hiện ước muốn mà cả đời anh đã quên lãng là đặt chân đến bãi bồi bên kia sông.
+ Thiên nhiên đẹp đẽ, giàu màu sắc trữ tình: thể hiên qua hình ảnh bãi bồi bên kia sông, nó thể hiện tình yêu với mảnh đất quê hương của nhân vật Nhĩ.
Giải câu 2 – Luyện tập (Trang 109 SGK ngữ văn 9 tập 2)
Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày, Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết.
Nêu cảm nghĩ của em về đoạn trích trên.
Trả lời:
Đoạn văn diễn tả cảm nhận và suy nghĩ của Nhĩ khi anh thấy đứa con trai ham chơi, quên lời bố nhờ. Đây cũng là những suy nghĩ của Nhĩ về cuộc đời cũng như về đứa con trai: Có lẽ, đứa con của anh cũng sẽ không tránh khỏi việc sa vào những điều “vòng vèo, chùng chình” trong cuộc sống mà đánh mất những giá trị đích thực của cuộc sống. Chỉ có những con người từng trải mới có thể nhìn thấu, nhận ra những giá trị ấy sau bao thời gian lãng quên, đánh mất. Và đó là một nỗi niềm hối hận, xót xa không thể kể xiết.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Bến quê
Câu 1. Nhân vật Nhĩ trong truyện ở vào hoàn cảnh như thế nào? Xây dựng tình huống ấy, tác giả nhằm thể hiện điều gì?
Trả lời:
Nhân vật Nhĩ trong truyện ở vào một hoàn cảnh đặc biệt. Từng di khắp nơi, về cuối đời Nhĩ lại bị cột chặt vào giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo, đến nỗi không thể tự mình dịch chuyển được. Chính vào thời điểm ấy, Nhĩ lại phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê thân thuộc, một vẻ đẹp bình dị mà quyến rũ.
Đặt nhân vật vào trong tình huống nghịch lý ấy, tác giả muốn dẫn bạn đọc đến những trải nghiệm về cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lý, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của con người.
Qua những suy nghĩ của nhân vật, Nguyễn Minh Châu còn muốn mang đến cho bạn đọc một chiêm nghiệm khác: “con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình” và sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp rất gần gũi như cái bãi bồi bên kia sông hay người vợ tảo tần, giàu tình yêu và đức hi sinh thì phải đến lúc này, khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới cảm nhận, thấm thía được.
Câu 2. Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ở cảnh ngộ bị buộc chặt vào giường bệnh, Nhĩ đã nhìn thấy những gì qua khung cửa sổ và anh khao khát điều gì? Vì sao Nhĩ lại có niềm khao khát ấy và điều đó có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Trong buổi sáng đầu thu, khi sắp từ giã cõi đời, Nhĩ bỗng phát hiện ra những vẻ đẹp mà trước đây, dù có điều kiện đi khắp thế giới, anh đã không thể nhận thấy được:
– Đó là một không gian có chiều sâu và bề rộng: từ những bông bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, vòm trời và bãi bồi bên kia sông.
– Đó là một cảnh đẹp chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc tinh tế: những chùm hoa thưa thớt nhưng lại đậm sắc hơn, mặt sông Hồng như rộng thêm ra, vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông…”. Những cảnh sắc ấy vốn rất quen thuộc, gần gũi nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh mới gặp.
Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống, những giá trị thường bị người ta bỏ qua hay lãng quên khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn, đang lấn át. Trong hoàn cảnh của Nhĩ, đó là sự thức tỉnh xen lẫn với niềm ân hận và nỗi xót xa.
Câu 3. Vì sao có thể nói ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Minh Châu ở thiên truyện này rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo? Phân tích sự miêu tả tâm lí nhân vật Nhĩ để khẳng định nhận xét ấy.
Trả lời:
Trong truyện ngắn này, ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Minh Châu rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo. Điều đó được thể hiện ngay từ cách lựa chọn và xử lý tình huống. Trong văn học, nhiều tác giả cũng đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh hiểm nghèo để làm nổi bật lên khát vọng sống và sức sống mạnh mẽ của con người hay về lòng nhân ái, sự hi sinh cao thượng… Nguyễn Minh Châu đã khai thác tình huống này theo một hướng khác. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, nhân vật suy ngẫm, tự trải nghiệm về cuộc đời với những suy nghĩ sâu sắc.
Những suy nghĩ của nhân vật Nhĩ về lẽ sống, về cuộc đời, về những con người hết sức cụ thể như người vợ, đứa con và về chính cuộc đời mình. Trong con mặt của một người sắp từ giã cõi đời, cảnh vật trước mắt bỗng đẹp và đáng yêu kỳ lạ. Hình ảnh người vợ gầy guộc với bàn tay chan chứa yêu thương đã trở thành “nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”. Sự thức nhận của Nhĩ về vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông được tô đậm thêm qua hình ảnh của đứa con – trong hoàn cảnh bình thường – còn mải chơi và thấy bãi bồi bên kia sông chẳng có gì hấp dẫn. Đó chính là tình yêu đối với cuộc sống đã được trải nghiệm qua một cuộc đời nhiều thăng trầm, đang trải qua những giây phút hiểm nghèo.
Câu 4. Ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả chân dung và cử chỉ của nhân vật Nhĩ với vẻ rất khác thường. Hãy giải thích ý nghĩa của các chi tiết ấy.
Trả lời:
Ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả chân dung và cử chỉ của nhân vật với vẻ rất khác thường: “Anh cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày, thế nhưng qua suy nghĩ của Nhĩ trước đó, ta lại nhận ra một ý nghĩa khác: đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái “vòng vèo, chùng chình” để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
Câu 5. Nhiều hình ảnh, chi tiết trong truyện này mang tính biểu tượng. Hãy tìm một số hình ảnh, chi tiết như vậy và nêu ý nghĩa biểu tượng của chúng. (Gợi ý: hình ảnh bãi bồi bên kia sông, bờ sông bên này bị sụt lở, chi tiết anh con trai sa vào đám chơi phá cờ thế…)
Trả lời:
Một số hình ảnh, chi tiết mang tính biểu tượng:
– Hình ảnh bãi bồi, bến sông, thiên nhiên ngoài khung cửa sổ ngoài ý nghĩa thực còn biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương.
– Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này đổ ụp vào giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng… gợi ra ý nghĩa sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng.
– Đứa con trai ham chơi gợi suy nghĩ về sự chùng chình, vòng vèo của đường đời.
Câu 6. Truyện ngắn này chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm của nhà văn về con người và cuộc đời. Tìm trong văn bản đoạn văn thể hiện tập trung chủ đề của truyện và nêu cảm nhận của em về đoạn văn.
Trả lời:
– Đoạn văn thể hiện tập trung chủ đề truyện là đoạn văn Nhĩ nhận ra đứa con trai ham chơi, quên cả việc bố nhờ “Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến …không bao giờ giải thích hết”.
– Ý nghĩa đoạn : thể hiện một triết lí mà nhà văn muốn gửi gắm – con người khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình, đồng thời thức tỉnh về những giá trị và vẻ đẹp đích thực của đời sống.
Soạn phần luyện tập bài Bến quê trang 108 – 109 SGK ngữ văn 9 tập 2
Bài 1. Đọc đoạn đầu của truyện và nhận xét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của tác giả trong đoạn văn ấy.
Trả lời:
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên ở đoạn đầu: miêu tả thiên nhiên thể hiện tâm lí nhân vật. Những bông bằng lăng tuy mới nở nhưng màu sắc đã nhợt nhạt, “đã sắp lập thu” → mọi thứ đều mang vẻ buồn bã sắp tàn.
Bài 2.
Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày, Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết.
Nêu cảm nghĩ của em về đoạn trích trên.
Trả lời:
Đoạn văn trên là lời gửi gắm của tác giả về triết lý cuộc đời thông qua dòng suy nghĩ của nhân vật Nhĩ. Những dòng suy nghĩ ấy đã đánh thức trong mỗi người đọc về nghịch lý của cuộc sống. Con người ta trong cuộc sống sẽ gặp phải những vòng vèo, chùng chình khiến ta lãng quên mất những giá trị hạnh phúc, những vẻ đẹp bình dị mà bền lâu ở ngay xung quanh chúng ta như bãi bồi bên kia sông. Khi con trẻ, con người chỉ chăm chăm tìm kiếm những vẻ đẹp nơi phương xa mà không nhận ra chính gia đình, quê hương mình mới là những giá trị, những cái đẹp đích thực. Nhưng đến khi con người nhận ra được điều này thì đã muộn, cũng như Nhĩ, vì căn bệnh khiến liệt nửa người dưới mà anh không còn cơ hội để đặt chân lên bãi bồi bên kia sông nữa. Con trai anh là Tuấn cũng không thể giúp bố hoàn thành tâm nguyện cuối cùng.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)