Giải câu hỏi 2 (Trang 137 SGK ngữ văn lớp 12 tập 2) – Phần soạn bài Diễn đạt trong văn nghị luận trang 136 – 141 SGK ngữ văn lớp 12 tập 2.
Đề bài:
Câu 2. Tìm hiểu đoạn trích sau và trả lời câu hỏi nêu ở dưới.
Ấy là Huy Cận đó – nhưng một thi sĩ “thiên nhiên” như chàng thì ở nơi nào chẳng được, ở thời nay cũng như ở thời xưa; chàng như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian; người ta muốn tưởng linh hồn Huy Cận là đám mây kia, là nỗi hắt hiu trong cõi trời, là hơi gió nhớ thương…
Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo Thiên Thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái “tôi”; mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bông lau; có phải niềm than van của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao?
(Xuân Diệu, Lời tựa cho tập Lửa thiêng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995)
Câu hỏi:
a) Những từ ngữ in đậm trong đoạn trích trên có tác dụng biểu hiện cảm xúc của người viết như thế nào và gợi lên điều gì về đối tượng nghị luận?
b) Sắc thái biểu cảm của các từ ngữ đó có phù hợp với đối tượng nghị luận của đoạn trích không? Tại sao?
Trả lời:
a) Các từ ngữ in đậm có tác dụng biểu hiện cảm xúc tinh tế, những rung động sâu sắc về hồn thơ Huy Cận. Đối tượng nghị luận là một tâm hồn thơ mang nỗi “sầu vũ trụ”, “buồn nhân thế”, “sầu vạn kỉ”.
b) Sắc thái biểu cảm của các từ ngữ in đậm rất phù hợp với đối tượng nghị luận (hồn thơ Huy Cận).
– Người viết gọi Huy Cận là “chàng” vì tác giả Lửa thiêng lúc dó còn rất trẻ (20 tuổi).
– Những từ ngữ: “linh hồn Huy Cận”, “Nỗi hắt hiu trong cõi trời”, “hơi gió nhớ thương”… rất phù hợp với hồn thơ Huy Cận vốn rất nhạy cảm với không gian đặc biệt là không gian vũ trụ vô biên với những gió, mây, trăng, sao…
(HTTPS://BAIVIET.ORG)
Leave a Comment