Soạn bài Tương tư (Nguyễn Bính) trang 49 – 50 SGK ngữ văn lớp 11 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Đọc thêm: Tương tư (Nguyễn Bính), sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
TƯƠNG TƯ
TIỂU DẪN
Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên là Nguyễn Bính Thuyết), sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, ở làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính mồ côi mẹ rất sớm, 10 tuổi đã phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Ông biết làm thơ từ khi mới 13 tuổi và năm 19 tuổi (1937) được nhận giải Khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn. Năm 1943, Nguyễn Bính vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, tham gia công tác văn nghệ và báo chí ở Hà Nội, Nam Định.
Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dân người đọc với chính bởi hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đã đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế, Nguyễn Bính được coi là “thi sĩ của đồng quê” và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (2000).
Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng : Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ – 1944) ; sau Cách mạng : Ông lão mài gươm (1947), Gửi người vợ miền Nam (1955), Người lái đò sông Vị (chèo – 1952)…
Bài thơ Tương tư rút trong tập Lỡ bước sang ngang, rất tiêu biểu cho phong cách thơ “chăn quê” của Nguyễn Bính.
VĂN BẢN
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuôm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ mới đến gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ?
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
HOÀNG MAI -1939
(Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
Hướng dẫn soạn bài – Tương tư (Nguyễn Bính)
I. Bố cục
Bố cục gồm 3 phần:
– Phần 1 (4 câu thơ đầu): khởi nguồn cho tâm trạng tương tư
– Phần 2 (12 câu tiếp theo): giãi bày tâm sự tương tư
– Phần 3 (còn lại): ước mơ muôn đời của tình yêu đôi lứa
II. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Tương tư (Nguyễn Bính)
Giải câu 1 (Trang 50 SGK ngữ văn 11 tập 2)
Anh (chị) cảm nhận như thế nào về nỗi nhớ mong và những lời kể lể, trách móc của chàng trai trong bài thơ?
Trả lời:
Nỗi nhớ mong và những lời kể lệ, trách móc, mơ tưởng, ước vọng xa xôi của chàng trai.
– Nhớ nhung da diết thành bệnh tương tư:Thành ngữ “chín nhớ mười mong” chỉ sợ nhớ nhung rất nhiều.
– Kể lệ, trách móc cũng chỉ là để bộc lộ nỗi tương tư của mình. Những câu hỏi tu từ xoáy vào lòng người nghe: Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? – Có xa xôi mấy mà tình xa xôi? Âm điệu câu hỏi biến thành lời than.
– Tâm trạng chờ đợi mòn mỏi, sốt ruột:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
+ Câu thơ “Ngày qua ngày lại qua ngày” ngắt nhịp 3/3, chữ “lại” trở thành điểm nhấn của ngữ điệu diễn tả nhịp thời gian cứ trôi mà sự trông chờ càng vô vọng, chán ngán.
+ Lấy sự chuyển đổi màu sắc cây lá “lá xanh” đã thành “lá vàng” để chỉ thời gian chờ đợi. Ở câu trên còn tính từng ngày, câu dưới đã thấy những mùa đi qua. Thời gian chờ đợi dài theo nỗi tương tư nên héo mòn,vô vọng, vô vàng. Cách diễn tả thật tinh tế và giàu ý nghĩa nhưng vẫn dễ cảm nhận.
– Mơ tưởng, ước vọng xa xôi:
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
+ Trong ao ước đã có mầm vô vọng: hình ảnh bến, hoa (cố định) – đò, bướm (di chuyển) thật khó mà “gặp” được nhau.
+ Chàng trai quê sống trong nỗi tương tư nhưng vẫn gửi theo gió nỗi niềm ước vọng xa xôi:
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Lẽ ra phải nói “cau thôn Đoài” nhớ “trầu thôn Đông” nhưng không dám chắc, đành nói lệch đi. Nhưng nỗi lòng nhớ nhung thì từ đầu đến cuối bài thơ đều không thay đổi.
Nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình trải suốt bài thơ nhưng đến tận cuối bài thơ vẫn chưa được đền đáp. Chính vì thế nó tạo nên cái cớ cho dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình được bộc lộ một cách tha thiết và sâu sắc.
Giải câu 2 (Trang 50 SGK ngữ văn 11 tập 2)
Theo anh (chị), cách bày tỏ tình yêu, giọng điệu thơ, cách so sánh, ví von… ở bài này có những điểm gì đáng lưu ý?
Trả lời:
Cách bày tỏ tình yêu, giọng điệu thơ, cách so sánh ví von ở bài thơ này có những điểm đáng lưu ý:
– Giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết, chân thành.
– Hình ảnh ví von, ẩn dụ, chất liệu ngôn từ chân quê đậm màu sắc dân gian: thôn Đoài, thôn Đông, bến, đò, hoa, bướm, trầu – cau.
– Cách bày tỏ tình yêu tự nhiên kín đáo, ý nhị và có ý vị chân thành mộc mạc của tâm hồn chàng trai quê.
Giải câu 3 (Trang 50 SGK ngữ văn 11 tập 2)
Hoài Thanh cho rằng, trong thơ Nguyễn Bính có “hồn xưa của đất nước”. Qua bài Tương tư, anh (chị) có đồng ý với nhận xét đó không? Vì sao?
Trả lời:
Trong thơ Nguyễn Bính “có hồn xưa đất nước” (Hoài Thanh). Điều đó được thể hiện ở cách biểu hiện cảm xúc, cách dùng ngôn ngữ, chất liệu đậm màu sắc dân gian, giàu chất “chân quê”.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Tương tư (Nguyễn Bính)
Câu 1. Anh (chị) cảm nhận như thế nào về nỗi nhớ mong và những lời kể lể, trách móc của chàng trai trong bài thơ?
Trả lời:
* Nỗi nhớ mong của chàng trai:
– Cách nói bóng gió xa xôi: Mượn trời đất nhớ nhau để thổ lộ nỗi nhớ -> tác dụng:
+ Nỗi nhớ được xác định trong một khoảng không gian -> chủ quan hóa đối tượng: khi người ta tương tư, cảnh vật cũng tương tư, không gian ngập tràn nhung nhớ.
+ Thể hiện sự nhút nhát, ý nhị và sâu sắc của chàng trai.
– Sử dụng thành ngữ “chín nhớ mười mong” để tăng cấp về mức độ cảm xúc -> thế giới tâm hồn cụ thể, tình cảm từ một thứ vô hình trở nên hữu hình, cụ thể.
– Cấu trúc câu đặc biệt “ Một người… một người” -> đẩy hai đối tượng ra xa và nhịp cầu nối giữa hai người là nỗi nhớ.
-> Tương tư là lẽ dĩ nhiên, là tất yếu của tình yêu.
* Những lời kể, trách móc của chàng trai:
– Lời trách móc như quy kết, làm cho đối tượng khó chạy tội: “Bảo rằng… xa xôi”.
– Nhà thơ phủ định tất cả: không xa, không cách trở, vậy mà người ấy không sang -> lời buộc tội cho người con gái.
– Điệp từ phiếm chỉ “ai” tạo âm hưởng trùng điệp, não lòng: trạng thái quen thuộc của tương tư: suy tư, sầu muộn đến không ngủ được -> vừa trách móc, vừa ngẩn ngơ chờ đợi.
– Trách vì yêu: Do quá mong nhớ, tưởng mình bị hờ hững nên sinh ra ngờ vực, hờn trách
-> một kiểu bày tỏ tình cảm.
* Nỗi nhớ da diết của chàng trai trải dài suốt tới tận cuối cùng của bài thơ nhưng tình cảm của chàng trai vẫn chưa được đền đáp.
Câu 2. Theo anh (chị), cách bày tỏ tình yêu, giọng điệu thơ, cách so sánh, ví von… ở bài này có những điểm gì đáng lưu ý?
Trả lời:
Cách bày tỏ tình yêu, giọng điệu thơ, cách so sánh, ví von,… ở bài này có những điểm đáng lưu ý:
– Cách bày tỏ tình yêu của nhân vật trữ tình kín đáo, ý nhị và có ý vị chân thành mộc mạc của chàng trai quê.
– Ngôn ngữ thơ dung dị hồn nhiên, dân dã nhưng vẫn pha chất lãng mạn mộng mơ.
– Sử dụng hệ thống ẩn dụ – hoán dụ – ước lệ một cách đặc sắc và sáng tạo.
– Hình ảnh ví von, chất liệu ngôn từ chân quê, đậm màu sắc dân gian: thôn Đoài – thôn Đông, bến – đò, hoa – bướm, trầu – cau,…-> quan niệm, ước mong về một tình yêu gắn bó, chung thủy.
– Giọng điệu nhẹ nhàng, chân thành, tha thiết.
Câu 3. Hoài Thanh cho rằng, trong thơ Nguyễn Bính có “hồn xưa của đất nước”. Qua bài Tương tư, anh (chị) có đồng ý với nhận xét đó không? Vì sao?
Trả lời:
Lời nhận định của Hoài Thanh cho rằng trong thơ Nguyễn Bính có “hồn xưa đất nước” rất đúng với bài Tương tư. Nó được thể hiện ở những câu thơ bình dị nhất nhưng vẫn có sức lôi cuốn.
Bên cạnh đó, bài thơ cũng được thể hiện ở cách: bày tỏ cảm xúc, cách dùng ngôn ngữ, chất liệu, màu sắc dân gian, giàu chất “chân quê”.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)