Soạn bài Uy-lít-xơ trở về (trích Ô-đi-xê – sử thi Hi Lạp – Hô-Me-Rơ) trang 47 – 52 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Uy-lít-xơ trở về, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.
UY-LÍT-XƠ TRỞ VỀ
(Trích Ô-đi-xê – sử thi Hi Lạp)
TIỂU DẪN
I-li-át và Ô-đi-xê, hai sử thi nổi tiếng của đất nước Hi Lạp, thường được coi là sáng tạo của Ho-me-rơ. Song cho đến nay, vẫn chưa biết đích xác Hô-me-rơ là ai. Có nhiều truyền thuyết kể về nhà thơ mù này. Phổ biến hơn cả là câu chuyện kể ông là con một gia đình nghèo và được sinh ra bên dòng sông Mê-lét vào khoảng thế kỉ IX – VIII trước Công nguyên. Ông mang tên Mê-lê-xi-gien (nghĩa là con của dòng sông Mê-lét).
Ô-đi-xê kể lại hành trình trở về quê hương của Uy-lít-xơ (tên gọi theo tiếng Hi Lạp là Ô-đi-xê-uýt(1)) sau khi hạ thành Tơ-roa. Ô-đi-xê là bức tranh hoành tráng, hào hùng của người Hi Lạp trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và di dân mở đất. Ô-đi-xê gồm 12110 câu thơ, được chia thành 24 khúc ca. Câu chuyện kể từ thời điểm Uy-lít-xơ sau mười năm rời Tơ-roa, vẫn chưa thể đặt chân lên mảnh đất quê hương và đang bị nữ thần Ca-líp-xô cầm giữ. Các thần cầu Dớt cho Uy-lít-xơ được sum họp với gia đình. Dớt đồng ý. Trong khi đó, tại quê nhà, Pê-nê-lốp, vợ của u phải đối mặt với 108 kẻ quyền quý trong vùng đến cầu hôn. Tê-lê-mác, con trai của chàng phải đương đầu với bọn chúng để bảo vệ gia đình. Tuân lệnh Dớt, nữ thần Ca-líp-xô buộc phải để u rời đảo. Sau vài ngày, gặp bão lớn, chiếc bè bị đánh tan tác, u may mắn dạt vào xứ xở vua An-ki-nô-ốt. Tại đây, u đã kể lại hành trình phiêu lưu mạo hiểm trong suốt mười năm qua các miền đất lạ cho nhà vua (khúc ca I – XII). Được An-ki-nô-ốt giúp đỡ, u u đã trở về quê hương sau 20 năm ròng rã xa cách (gồm 10 năm đánh thành Tơ-roa và 10 năm trôi dạt lênh đênh) nơi u phải đối mặt với một nguy hiểm mới. Đó là bọn cầu hôn xảo quyệt, hung hãn đang rắp tâm chiếm đoạt tài sản gia đình. Uy-lít-xơ cùng con trai và gia nhân trung thành lập mưu trừng trị bọn chúng. Nữ thần A-tê-na xuống trần báo tin u được Dớt cho phép đoàn tụ và được trừng trị những kẻ đã phá hoại gia đình mình. Cuộc sống mới bắt đầu trên xứ sở I-tác, quê hương yêu dấu của u (khúc ca XIII – XXIV).
Chủ đề chính của Ô-đi-xê là chinh phục thiên nhiên để khai sáng, mở rộng giao lưu. Ô-đi-xê tái hiện xung đột giữa các nền văn minh, các trình độ văn hóa; là cuộc đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nếu A-sin, người anh hùng trận mạc xuất chúng trong sử thi I-li-át, là biểu tượng sức mạnh thể chất thì Uy-lít-xơ là biểu tượng của sức mạnh trí tuệ của người Hi Lạp. Đây là hai mẫu anh hùng văn hóa tiêu biểu của dân tộc Hi Lạp. Họ cũng thuộc về kiểu nhân vật siêu mẫu kết tinh từ các truyền thuyết và huyền thoại cổ xưa.
Đoạn trích dưới đây thuộc khúc ca thứ XXIII của sử thi Ô-đi-xê.
VĂN BẢN
Giả dạng làm người hành khất, Uy-lít-xơ đã vào được trong ngôi nhà của mình, được Pê-nê cho phép ở lại để kể cho nàng nghe những câu chuyện về chồng nàng mà anh ta biết. Pê-nê tổ chức cuộc thi bắn cung chọn chồng dựa vào đó hai cha con Uy-lít-xơ trù tính cách thức tiêu diệt kẻ thù. Bọn cầu hôn không ai thực hiện được yêu cầu của cuộc thi. Uy-lít-xơ dưới bộ áo hành khất xin tham dự và đã thắng. Vớ cây cung trong tay, Uy-lít-xơ tiêu diệt những tên cầu hôn đầu sỏ, đánh đuổi chúng ra khỏi nhà, trừng phạt lũ đầy tớ phản chủ. Đoạn dưới đây kể tiếp màn vợ chồng đoàn viên…
(Nhũ mẫu Ơ-ri-clê lên gác gọi Pê-nê-lốp dậy, báo cho nàng biết Uy-lít-xơ chồng nàng đã trở về, đã trừng trị bọn cầu hôn. Nhưng Pê-nê-lốp vẫn không tin…)
Pê-nê-lốp thận trọng nói:
– Già ơi, già hãy khoan hí hửng, reo cười. Già cũng biết, nếu chàng trở về thì mọi người trong nhà, nhất là tôi và con trai chúng tôi sinh ra kia sẽ sung sướng xiết bao! Nhưng câu chuyện già kể không hoàn toàn đúng sự thực. Đây là một vị thần đã giết bọn cầu hôn danh tiếng, một vị thần bất bình vì sự láo xược bất kham và những hành động nhuốc nhơ của chúng. Vì chúng chẳng kiêng nể một ai trên cõi đời này, dù là dân đen hay người quyền quý, hễ gặp chúng là bất cứ ai cũng bị chúng khinh miệt. Vì sự bất công điên rồ của chúng nên chúng phải đền tội đấy thôi. Còn về phần Uy-lít-xơ thì ở nơi đất khách quê người chàng cũng đã hết hi vọng trở lại đất A-cai(1), chính chàng cũng đã chết rồi.
Nhũ mẫu O-ri-clê hiền thảo đáp:
– Con ơi! Sao con dám hé răng nói vậy? Chồng con đang ở đây, ngay tại nhà này, mà con lại không tin, nói rằng người sẽ không bao giờ về nữa! Vậy để già nói cho con biết một dấu hiệu khác nhé, một dấu hiệu không sao cãi được: đó là cái sẹo do răng nanh trắng của một con lợn lòi húc người ngày xưa để lại. Khi gì rửa chân(2) cho người, già chợt nhận ra cái sẹo đó. Già đã toan mách bảo con, nhưng người đưa tay bịt miệng già lại, cấm nói, vì người dăng có trong đầu óc một ý nghĩ rất khôn. Vậy con cứ đi với già. Già đem tính mệnh ra đánh cuộc với con: nếu già lừa dối con thì con cứ đem giết già đi bằng cách nào tàn ác nhất.
Pê-nê-lốp thận trọng đáp:
– Già ơi! Dù già sáng suốt đến đâu, già cũng không sao hiểu thấu những ý định huyền bí của thần kinh bất tử. Nhưng thôi, gác chuyện đó lại. Bây giờ ta hãy xuống nhà với Tê-lê-mác để xem xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng.
Nói xong, nàng bước xuống lầu. Lòng nàng rất đỗi phân vân: nàng không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn? Khi vào đến nhà, bước qua ngưỡng cửa bằng đá, nàng đến ngồi trước mặt Uy-lít-xơ, dưới ánh lửa hồng, dựa vào bức tường đối diện, còn Uy-lít-xơ thì ngồi tựa vào một cái cột cao, mắt nhìn xuống đất, đợi xem bây giờ tận mắt trông thấy mình rồi, người vợ cao quý của minh sẽ nói gì với mình. Nhưng nàng vẫn ngồi lặng thinh trê ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ áo quần rách mướp.
Tê-lê-mác bèn cất lời trách mẹ gay gắt:
– Mẹ ơi, mẹ thật tàn nhẫn, và lòng mẹ độc ác quá chừng! Sao mẹ lại ngồi xa cha con như thế, sao mẹ không đến bên cha, vồn vã hỏi han cha? Không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt hai mươi năm nay, trải qua bao nỗi gian lao, bây giờ trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng như vậy. Nhưng mẹ thì bai giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá.
Pê-nê-lốp thận trọng đáp:
– Con ạ, lòng mẹ kinh ngạc quá chừng, mẹ không sao nói được một lời, mẹ không thể hỏi han, cũng không thể nhìn thẳng mặt người. Nếu quả thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được nhau một cách dễ dàng, vì cha và mẹ có những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết.
Nghe nàng nói vậy, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại mỉm cười.Rồi người vội nói với Tê-lê-mác những lời có cánh(3) như sau:
– Tê-lê-mác, con! Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy. Hiện giờ cha còn bẩn thỉu, áo quần rách rưới, nên mẹ con khinh cha, chưa nói: “Đích thị là chàng rồi!”. Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xem nên xử trí thế nào cho ổn thỏa nhất. Nếu có ai giết chết một người trong xứ sở, chỉ một người thôi, và dù kẻ bị giết chẳng có ai báo thù cho nữa, thì người ấy cũng phải rời bỏ cha mẹ, đất nước, trốn đi. Huống hồ chúng ta đây, chúng ta đã hạ cả thành lũy(4) bảo vệ đô thị, giết các chàng trai của những gia đình quyền quý nhất; tình huống ấy, cha khuyên con nên suy nghĩ.
Tê-lê-mác chậm rãi đáp:
– Cha thân yêu, việc này xin cha để tùy cha định liệu, vì xưa nay cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp.Về phần chúng con, chúng con sẽ hết lòng hăng hái phù tá cha, và xin cha tin rằng chỉ nói trong phạm vi sức lực của con, con cũng không phải là người kém gan dạ.
(Uy-lít-xơ bảo mọi người đi tắm rửa, rồi mặc quần áo đẹp, ca múa cho người ngoài lầm tưởng trong nhà làm lễ cưới(5), dặn ai nấy giữ kín chuyện cho đến khi cha con lui về trang trại của La-éc-tơ(6) rồi sẽ bàn tính sau, Uy-lít-xơ cũng đi tắm.)
Khi Uy-lít-xơ từ phòn tắm bước ra, trông đẹp như một vị thần. Người lại trở về chỗ cũ, ngồi đối diện với Pê-nê-lốp, trên chiếc ghế bành ban nãy, rồi nói với nàng:
– Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở. Thôi, già ơi! Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt đá.
Pê-nê-lốp thận trọng đáp:
– Khốn khổ! Tôi không coi thường, coi khinh ngài, cũng không ngạc nhiên đến rối trí đâu. Tôi biết rất rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, Ơ-ri-clê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường.
Nàng nói vậy để thử chồng, nhưng Uy-lít-xơ bỗng giật mình nói với người vợ thận trọng:
– Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường tôi đi chỗ khác cậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này. Nếu thần linh muốn xê dịch thì dễ thôi, nhưng người trần dù đang sức thanh niên cũng khó lòng lay chuyển được nó. Đây là một chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai. Nguyên trong sân nhà có một cây ô-liu(7) lá dài; nó mọc lên, khỏe, xanh tốt và to như cái cột. Tôi kẻ vạch gian phòng của vợ chồng mình quanh cây ô-liu ấy, rồi xây lên với đá tảng đặt khít nhau. Tôi lợp kĩ gian phòng, rồi lắp những cánh cửa bằng gỗ liền, đóng rất chắc. Sau đó tôi chặt hết cành lá của cây ô-liu lá dài, cố đẽo thân cây từ gốc cho thật vuông vắn rồi nảy đường mực, làm thành một cái chân giường và lấy khoan khoan lỗ khắp xung quanh. Tôi bào tất cả các bộ phận đặt trên chân giường đó, lấy vàng bạc và ngà nạm vào trang trí, và cuối cùng tôi căng lên mặt giường một tấm da màu đỏ rất đẹp. Đó là điểm đặc biệt mà tôi vừa nói với nàng. Nhưng nàng ơi, tôi muốn biết cái giường ấy hiện còn ở nguyên chỗ cũ, hay đã có người chặt gốc cây ô-liu mà dời nó đi nơi khác.
Pê-nê-lốp vui sướng nhận ra chồng mình
(Tranh minh họa cuốn Ô-đi-xê xuất bản tại Pa-ri, 1996)
Người nói vậy, và Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay, nàng thấy Uy-lít-xơ tả đúng mười mươi sự thật. Nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng và nói:
– Uy-lít-xơ! Xin chàng chớ giận thiếp, vì xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan. Ôi! Thần linh(8) đã dành cho hai ta một số phận xiết bao cay đắng vì người ghen ghét ta, không muốn cho ta được sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà thiếp không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác…Giờ đây, chàng đã đưa ra những chứng cớ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp và Ác-tô-rít, một người thị tì của cha thiếp cho khi thiếp về đây, và sau đó giữ cửa gian phòng vách tường kiên cố của chúng ta. Vì vậy chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi.
Nàng nói vậy, khiến Uy-lít-xơ càng thêm muốn khóc. Người ôm lấy người vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời chung thủy của mình mà khóc dầm dề.
Dịu hiền thay mặt đất, khi nó hiện lên trước mắt những người đi biển bị Pô-dê-i-đông(9) đánh tan thuyền trong sóng cả gió to, họ bơi, nhưng rất ít người thoát khỏi biển khơi trắng xóa mà vào được đến bờ; mình đầy bọt nước, những người sống sót mừng rỡ bước lên đất liền mong đợi; Pê-nê-lốp cũng vậy, được gặp lại chồng, nàng sung sướng xiết bao, nàng nhìn chồng không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời.
(HÔ-ME-RƠ, Ô-đi-xê, theo bản dịch ra văn xuôi của PHAN THỊ MIẾN,
NXB Văn học, Hà Nội, 1983)
Chú thích:
(1) A-cai (Akhaie): miền đất phía bắc bán đảo Pô-lô-pô-ne-dơ của Hi Lạp cổ đại. Trước khi đi đánh thành Tơ-roa, Uy-lít-xơ làm vua ở đảo I-tác (thuộc A-cai).
(2) Theo tục mến khách của người Hi Lạp cổ, khách quý thường được đày tớ của chủ rửa chân cho.
(3) Lời có cánh: lời nói bay bổng như được chắp thêm đôi cánh – lối nói hình ảnh mà Hô-me-rơ thường sử dụng để ca ngợi phẩm chất trí tuệ cùa nhân vật.
(4) Hạ cả thành lũy: ám chỉ bọn cầu hôn quyền quý bị Uy-lít-xơ trừng phạt.
(5) Làm lễ cưới: vì Uy-lít-xơ cải trang dưới dạng người hành khất đã chiến thắng trong cuộc thi bắn cung chọn chồng nên có thể làm lễ cưới.
(6) La-éc-tơ: bố của Uy-lít-xơ.
(7) Cây ô-liu (tiếng Pháp: olivie): một loại cây cho quả để sản xuất dầu ăn.
(8) Thần linh: ở đây muốn ám chỉ các thần đã trừng phạt Uy-lít-xơ vì chàng đã triệt hạ thành Tơ-roa.
(9) Pô-dê-i-đông (Pôscidon): thần Biển trong thần thoại Hi Lạp.
Hướng dẫn soạn bài – Uy-lít-xơ trở về
I. Tóm tắt
Sau 20 năm ròng rã, Uy-lít-xơ trở về quê hương. Lúc này Uy-lít-xơ phải đối mặt với mối hiểm nguy mới, đó là 108 kẻ cầu hôn lăm le chiếm đoạt gia sản nhà chàng. Uy-lít-xơ đã cùng con trai là Tê-lê-mác đánh đuổi 108 kẻ cầu hôn đó. Nhưng vợ chàng, Pê-nê-lốp vẫn chưa tin vào sự hiện diện của chàng. Sau khi vượt qua thử thách về chiếc giường cưới do Pê-nê-lốp đưa ra, Uy-lít-xơ và vợ mới nhận ra nhau, vỡ òa trong hạnh phúc.
– Giá trị tác phẩm Ô-đi-xê:
+ Nội dung: Ca ngợi sức mạnh của trí tuệ, ý chí nghị lực của con người với khát vọng tìm hiểu, chinh phục tự nhiên và thể hiện ước mơ về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc
+ Nghệ thuật: Trí tưởng tượng phóng khoáng, năng khiếu quan sát tinh tế, cốt truyện hoàn chỉnh, tính cách nhân vật nhất quán, ngôn ngữ trang trọng, tràn đầy định ngữ, ẩn dụ…
– Nội dung đoạn trích:
Đoạn trích tái hiện lại cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng Uy-lít-xơ sau hai mươi năm xa cách nhưng nó diễn ra không bình thường mà trở thành một cảnh nhận mặt đầy cảm động. Trong cảnh ấy các nhân vật đã thử thách lẫn nhau để tìm về hạnh phúc. Câu chuyện là bài ca về vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng hạnh phúc của người Hi Lạp. Qua đây, ta nhận ra rằng, tình cảm gia đình là một thứ tình cảm rất cao quý, thiêng liêng.
II. Bố cục
+ Phần 1 (từ đầu đến “con cũng không phải là người kém gan dạ”): Uy-lít-xơ trở về trong sự vui mừng của mọi người trong nhà, riêng Pê-nê-lốp vẫn không nhận chàng là chồng mình.
+ Phần 2 (đoạn còn lại): Uy-lít-xơ vượt qua thử thách chiếc giường cưới, gia đình đoàn tụ trong hạnh phúc.
III. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Uy-lít-xơ trở về
Giải câu 1 (Trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Văn bản trên có thể chia làm mấy đoạn? Nêu nội dung của mỗi đoạn.
Trả lời:
Đoạn trích có thể chia làm 2 phần:
– Phần 1: (Từ đầu đến “con cũng không phải là người kém gan dạ”): Uy-lít-xơ trở về trong sự vui mừng của mọi người trong nhà, riêng Pê-nê-lốp vẫn không nhận chàng là chồng mình.
– Phần 2: (Đoạn còn lại): Uy-lít-xơ vượt qua thử thách chiếc giường cưới, gia đình đoàn tụ trong hạnh phúc.
Giải câu 2 (Trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Tâm trạng của Uy-lít-xơ khi trở về gặp lại vợ mình biểu hiện như thế nào? Cách ứng xử của chàng bộc lộ phẩm chất gì?
Trả lời:
Phẩm chất của Uy-lít-xơ qua tâm trạng của chàng khi gặp vợ :
– Khi Pê-nê-lốp không chịu nhận chàng là chồng và người con trai tỏ thái độ khi mẹ không chịu nhân cha, Uy-lít-xơ vẫn mỉm cười bảo: “Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy?”. Điều này thể hiện sự nhẫn nại, bình tĩnh của Uy-lít-xơ và niềm tin mãnh liệt của chàng đối với vợ.
– Uy-lít-xơ bàn với con trai về việc đối phó với những gia đình quyền quý có người bị chàng giết. Điều này thể hiện sự khôn ngoan và sáng suốt của Uy-lít-xơ.
– Uy-lít-xơ hờn dỗi khi Pê-nê-lốp mãi vẫn không nhận ra chàng và chàng khóc khi nghe vợ giải thích nguyên nhân. Điều đó chứng tỏ Uy-lít-xơ là một người rất giàu tình cảm, rất yêu vợ và trân trọng cuộc sống gia đình.
Giải câu 3 (Trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Vì sao Pê-nê-lốp lại “rất đỗi phân vân”? Việc chọn cách thử “bí mật của chiếc giường” cho thấy vẻ đẹp gì về trí tuệ và tâm hồn của nàng?
Trả lời:
– Pê-nê-lốp ” rất đỗi phân vân” vì nếu vị hành khất là chồng nàng thực thì tại sao trong lần gặp trước lại không nói ra. Hơn nữa, nếu Pê-nê-lốp vội vã mà nhận lầm thì danh dự của nàng sẽ bị tổn thương rất lớn – đây là điều tối kị của Hy Lạp.
– Cũng giống như Uy-lít-xơ, Pê-nê-lốp có những phẩm chất cao đẹp, đó là vẻ đẹp trí tuệ, sự bình tĩnh, tự tin, sự quyết đoán và luôn chủ động trong mọi tình huống.
– Pê-nê-lốp phải dùng đến cách thử bí mật của chiếc giường trong màn nhận mặt vì bí mật ấy giúp giải đáp được nhiều mối nghi ngờ. Trước hết, để Pê-nê-lốp biết đó không phải là Uy-lít-xơ giả. Sau nữa, nó còn là minh chứng cho lòng chung thủy của nàng. Nếu chiếc giường đã bị chuyển đi hoặc đã không còn là bí mật của riêng hai vợ chồng nữa thì cũng có nghĩa là phẩm giá của Pê-nê-lốp cũng không còn nguyên vẹn. Phép thử ấy không những chỉ nói lên phẩm chất kiên trinh của Pê-nê-lốp mà còn khắc sâu sự bền vững của tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng cha con.
– Hành động của Pê-nê-lốp (một sự cẩn trọng gần như thái quá) chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp của thời đại – nơi mà những hiểm nguy luôn rình rập, đe dọa con người.
Giải câu 4 (Trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Cách kể chuyện của Hô-me-rơ qua đoạn trích tạo hiệu quả gì? Biện pháp nghệ thuật nào thường được sử dụng để khắc họa phẩm chất nhân vật? Biện pháp nghệ thuật nào đã được sử dụng ở khổ thơ cuối của đoạn trích (“Dịu hiền…buông rời”)?
Trả lời:
– Cách kể của Hô-me-rơ qua đoạn này thể hiện đặc trưng của phong cách kể chuyện sử thi, vừa chậm rãi, vừa tỉ mỉ, trang trọng. Ở đoạn trích này Pê-nê-lốp nghi ngờ, không tin Uy-lít-xơ là người chồng xa cách của mình. Do đó kiểu kể chuyện tỉ mỉ này tạo ra những đoạn đối thoại mang hình thức thăm dò, thử phản ứng từ đó dẫn tới bản chất của vấn đề.
– Để khắc họa bản chất nhân vật, Hô-me-rơ thường sử dụng hình thức gọi nhân vật bằng cụm danh – tính từ rất phổ biến trong sử thi Hi Lạp (ví dụ: Pê-nê-lốp thận trọng, nhũ mẫu Ơ-ri-clê hiền thảo, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại…). Điều này tạo cho sử thi phong cách riêng, hấp dẫn, đặc sắc, làm bộc lộ phẩm chất cao đẹp của các nhân vật
– Biện pháp nghệ thuật được Hô-me-rơ sử dụng ở khố cuối đoạn trích (“Dịu hiền” … “buông rời”) là biện pháp so sánh có đuôi dài (so sánh mở rộng), vế so sánh được nói trước, dài hơn với hình ảnh cụ thể, sinh động, như cái đòn bẩy nghệ thuật, tạo hiệu quả cao cho câu văn.
Soạn phần luyện tập bài Uy-lít-xơ trở về
Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Đoạn trích trên đây thường được gọi là “cảnh nhận mặt bằng phép thử bí mật của chiếc giường” và là một trong những sự kiện làm nổi bật tình huống đoàn viên. Học sinh có thể tự tổ chức biểu diễn cảnh này (theo hình thức đóng kịch) để khắc họa sâu thêm hoàn cảnh cũng như hành động của các nhân vật.
Trả lời:
Học sinh tự tổ chức biểu diễn cảnh này (theo hình thức đóng kịch) theo hướng dẫn của giáo viên hoặc lớp trưởng, nhóm trưởng.
Giải câu 2 – Luyện tập (Trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Nhập vai Uy-lít-xơ, anh (chị) hãy kể lại cảnh nhận mặt ấy.
Trả lời:
Khi tôi từ phòng tắm bước ra, thoát khỏi dáng vẻ một tên ăn mày, tôi ngồi đối diện với vợ mình, và nói chuyện với nàng. Ta có chút trách móc nàng vì quá sắt đá. Ta bèn sai gia nhân kê giường riêng để tôi ngủ một mình. Vợ ta, Pê-nê-lốp thận trọng đáp lời. Nàng nói rằng nàng không coi thường ta, cũng không ngạc nhiên đến rối trí, tiếp đó, nàng nói với gia nhân khiêng chiếc giường do chính tay ta làm ra khỏi gian phòng. Cả hai ta đều biết chiếc giường ấy, ngoài thần linh ra, không ai có thể di chuyển nó. Ta hốt hoảng, hỏi dồn, không biết ai đã xê dịch chiếc giường, ta nói lại từng chi tiết về chiếc giường cưới. Ta nhớ rõ vì chính ta làm ra chiếc giường ấy. Sau khi ta nói xong, vợ ta bủn rủn chân tay, ta biết nàng đã nhận ra ta chính là chồng nàng. Nàng đã chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ ta và nói những lời âu yếm. Rồi ta ôm lấy vợ mình, không ngăn nổi dòng nước mắt.
Tham khảo thêm cách soạn khác bài Uy-lít-xơ trở về
Câu 1. Văn bản trên có thể chia làm mấy đoạn? Nêu nội dung của mỗi đoạn.
Trả lời:
Đoạn ttrích này có thể chia thành hai phần:
– Phần một từ đầu đến “… người kém gan dạ“. Cuộc đối thoại giữa bốn nhân vật (nhũ mẫu Ơ-ri-clê, con trai Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ), Pê-nê-lốp thận trọng chưa chịu nhận chồng.
– Phần hai là đoạn còn lại. Pê-nê-lốp thử thách Uy-lít-xơ về bí mật của chiếc giường. Pê-nê-lốp nhận ra chồng.
Câu 2. Tâm trạng của Uy-lít-xơ khi trở về gặp lại vợ mình biểu hiện như thế nào? Cách ứng xử của chàng bộc lộ phẩm chất gì?
Trả lời:
– Tâm trạng Uy-lít-xơ: mong chờ được gặp vợ, muốn được nghe người vợ cao quý sẽ nói gì với mình.
– Khi thấy vợ im lặng, không nhận mình, Uy-lít-xơ mỉm cười nói với con trai Tê-lê-mác: “Tê-lê-mác, con! Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này!… cha khuyên con nên suy nghĩ”.
– Cách xử trí của Uy-lít-xơ cho thấy chàng là một người nhẫn nại, cao quý, hai mươi năm chinh chiến, trôi dạt đã tôi luyện cho chàng một vẻ điềm tĩnh.
Câu 3. Vì sao Pê-nê-lốp lại “rất đỗi phân vân”? Việc chọn cách thử “bí mật của chiếc giường” cho thấy vẻ đẹp gì về trí tuệ và tâm hồn của nàng?
Trả lời:
– Pê-nê-lốp rất đỗi phân vân bơi nửa tin nửa ngờ, không chắc chắn người trước mặt là chồng mình hay là kẻ giả mạo. Nàng phân vân còn bởi nàng không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện hay nên lại gần, cầm lấy tay chồng mà hôn.
– Chọn cách thử “bí mật của chiếc giường” cho thấy trí tuệ, sự cẩn trọng của Pê-nê-lốp, đồng thời cũng cho thấy tình cảm thủy chung của nàng đối với chồng.
Câu 4. Cách kể chuyện của Hô-me-rơ qua đoạn trích tạo hiệu quả gì? Biện pháp nghệ thuật nào thường được sử dụng để khắc họa phẩm chất nhân vật? Biện pháp nghệ thuật nào đã được sử dụng ở khổ thơ cuối của đoạn trích (“Dịu hiền…buông rời”)?
Trả lời:
– Cách kể đậm phong cách sử thi Hi Lạp: vừa chậm rãi, vừa tỉ mỉ, trang trọng. Ở đoạn trích này Pê-nê- lốp nghi ngờ, không tin Uy-lít-xơ là người chồng xa cách của mình. Do đó kiểu kể chuyện tỉ mỉ này tạo ra những đoạn đối thoại mang hình thức thăm dò, thử phản ứng từ đó dẫn tới bản chất của vấn đề.
– Để khắc họa bản chất nhân vật, Hô-me-rơ thường sử dụng hình thức gọi nhân vật bằng cụm danh – tính từ rất phổ biến trong sử thi Hi Lạp: Pê-nê-lốp thận trọng, nhũ mẫu Ơ-ri-clê hiền thảo, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại,…
– Biện pháp nghệ thuật được Hô-me-rơ sử dụng: biện pháp so sánh có đuôi dài, Hô-me-rơ đã ví niềm vui tái ngộ của Pê-nê-lốp với Uy-lít-xơ cũng giống như hạnh phúc của con người thoát nạn biển khơi. Vế so sánh được nói trước, dài hơn với hình ảnh cụ thể, sinh động, như cái đòn bẩy nghệ thuật nhằm tôn lên sự việc được so sánh, tạo hiệu quả đặc biệt cho câu văn.
Soạn phần luyện tập bài Uy-lít-xơ trở về (trang 52 SGK ngữ văn 10 tập 1)
Bài 1. Đoạn trích trên đây thường được gọi là “cảnh nhận mặt bằng phép thử bí mật của chiếc giường” và là một trong những sự kiện làm nổi bật tình huống đoàn viên. Học sinh có thể tự tổ chức biểu diễn cảnh này (theo hình thức đóng kịch) để khắc họa sâu thêm hoàn cảnh cũng như hành động của các nhân vật.
Trả lời:
Học sinh tự tổ chức biểu diễn cảnh này.
Bài 2. Nhập vai Uy-lít-xơ, anh (chị) hãy kể lại cảnh nhận mặt ấy.
Trả lời:
Tôi trở về ngôi nhà thân thương của mình sau hai mươi năm ròng rã bên ngoài. Một niềm vui vô bờ khi đặt chân đến ngôi nhà, gặp lại người thân, bạn bè, gia nhân thế nhưng họ lại không nhận ra tôi và người vợ yêu dấu ngày nào nay lại lạnh nhạt. Trải qua thử thách khi tiêu diệt được bọn cầu hôn vô nhân, tôi bước vào nhà những mong được ôm lấy vợ mình nhưng nàng lại đắn đo, nhìn tôi như người xa lạ. Tim tôi nhói đau, chẳng lẽ nàng lại không nhận ra tôi, chẳng nhẽ thời gian đã làm cho nàng quên đi người chồng thuở nào. Cuối cùng nàng đặt ra thử thách “chiếc giường” để chắc chắn tôi là chồng của nàng. Tôi biết ơn sự thông tuệ của nàng, sự cẩn trọng của nàng, điều đó cho thấy nàng chưa bao giờ dễ dãi, chưa bao giờ hết mong nhớ người chồng này. Tôi nhận biết chiếc giường và bí mật giữa hai vợ chồng một cách dễ dàng. Vợ tôi xúc động ôm trầm lấy, nàng nhỏ những giọt lệ vui mừng chào đón sự trở về của chồng. Cả gia đình ai nấy đều vui mừng và hạnh phúc chào đón tôi trở về.