Giải câu hỏi 2 – Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự (Trang 138 SGK ngữ văn 9 tập 1) – Phần soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự trang 137 – 139 SGK ngữ văn lớp 9 tập 1.
Đề bài:
Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:
a) Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.
Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên.
b) Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự. Yếu tố nghị luận đã làm cho đoạn văn sâu sắc như thế nào?
(Gợi ý: Để thực hiện các yêu cầu trên, cần chú ý mấy điểm sau:
– Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?
– Để làm rõ luận điểm đó, người nói đã đưa ra luận cứ gì và lập luận như thế nào?
– Các câu văn trong đoạn trích trên thường là loại câu gì? (miêu tả, trần thuật, khẳng định, phủ định, câu ghép có cặp từ hô ứng: nếu…thì; không những…mà còn; càng…càng; vì thế…cho nên…)
– Các từ lập luận thường được dùng ở đây là gì? (tại sao, thật vậy, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên,…)
Trả lời:
Đoạn 1: Đây là suy nghĩ nội tâm của ông giáo trong truyện Lão Hạc của Nam Cao
a)
– Nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…
– Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi.
– Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.
– Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.
– Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.
Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.
b)
Luận điểm
+ Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh mình thì ta chỉ thấy toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương … Đây là luận điểm có tính chất đặt vấn đề.
+ Vợ tôi không ác, nhưng vì thị khổ quá rồi nên sinh ra ích kỉ, tàn nhẫn với người khác. Đây là luận điểm có tính chất phát triển lập luận, triển khai vấn đề nghị luận. Các luận chứng và lí lẽ được đưa ra: một người đau chân….; khi người ta khổ quá thì…
+ Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Đây là luận điểm kết luận, kết thúc lập luận.
⟹ Với việc lập luận như trên, tác giả đã “kể được” câu chuyện về nỗi giằng xé, trăn trở, bi kịch bên trong con người; khẳng định về quan điểm nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc đời. Đồng thời, phác ra được thực trạng nhân sinh cùng khổ trong bối cảnh xã hội đầu thế kỉ XX.
Về hình thức, đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính lập luận. Đó là các câu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng nếu thì; vì thế… cho nên, sở dĩ… là vì; khi A… thì B… Các câu văn trong đoạn trích đều là những câu khẳng định, ngắn gọn, khúc chiết như diễn những chân lý.
Đoạn 2:
a) Qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, có thể thấy cuộc đôi thoại giữa Kiều và Hoạn Thư được diễn ra dưới hình thức nghị luận. Hình thức này rất phù hợp với một phiên tòa. Trước tòa án, quan trọng nhất là người ta phải trình bày lý lẽ, chứng lý, nhân chứng, vật chứng… sao cho có sức thuyết phục. Trong phiên tòa này, Kiều là luật sư buộc tội, còn Hoạn Thư là bị cáo. Mỗi bên đều có lập luận của mình.
b)
– Lập luận của Thúy Kiều
+ Xưa nay, đàn bà có mấy người ghê ghớm, cay nghiệt như mụ
+ Càng cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái (Đây là kiểu câu khẳng định).
– Lập luận của Hoạn Thư:
+ Thứ nhất: mình là đàn bà, ghen tuông là chuyện bình thường.
+ Thứ hai: mình đã đối xử rất tôt với cô khi cô chép kinh ở “Quan Âm Các”.
+ Thứ ba: mình và cô đều là cánh chồng chung nên chẳng nhường cho nhau được …
+ Thứ tư: dù sao mình đã gây ra nhiều đau khổ cho cô, giờ đây mình chỉ còn trông vào lòng khoan dung rộng lớn của cô.
– Hình thức: Thúy Kiều sử dụng hình thức câu khẳng định, càng … càng => Khẳng định tội ác của Hoạn Thư.
(HTTPS://BAIVIET.ORG)